Phạm
Quỳnh
Lời dẫn của Phạm Tôn: Bài này Phạm Quỳnh viết bằng tiếng Pháp nhan
đề Psychologie du Tet, đăng trên phần Pháp văn của Tạp chí Nam
Phong số 149-1924, sau này có in trong Tiểu luận 1922-1932 (Essais
1922-1932) và đã được nhà văn Nguyên Ngọc dịch rất đạt ra tiếng ta, xuất bản
năm 2007. Nhưng ở đây, chúng tôi giới thiệu với bạn đọc bản dịch của Tiến sĩ
Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh, và là tác giả luận văn Tìm hiểu tạp
chí Nam Phong để tạo thêm một nét hứng thú trong ngày Tết này.
Những dịp để cho cả một dân tộc cùng nhau hướng về một tình cảm, một tư tưởng, để cùng nhau rung động…thật là hiếm có. Thường phải có những sự xẩy ra khá quan trọng, có ảnh hưởng đến tính mạng cả một đoàn thể, để ai nấy đều phải để hết tâm trí vào.
Dân Việt Nam ta có cái may mắn, cái đặc ân là có một dịp vui chung cho tất cả, dịp ấy cứ đều đặn mỗi năm một lần vào ngày đầu xuân năm mới. Về dịp này tất cả đàn con đất Việt, từ người giàu cho đến kẻ nghèo, từ người tiên tiến cho đến kẻ thủ cựu đều một lòng một dạ, cùng nhau hớn hở đón chúa xuân, trong mấy ngày lễ long trọng, trang nghiêm mà cũng rộn ràng náo nhiệt biết bao! Ngày ấy là ngày TẾT.
“TẾT”, chữ màu nhiệm thay! Như đã chứa chất biết bao niềm vui mừng của
cả một dân tộc vô tư vui vẻ, cứ mỗi năm, đến kỳ xuân tới là quên cả hết thẩy
những nỗi lo lắng khó khăn của năm cũ để sẵn sàng hoan hỷ bước vào năm mới với
chứa chan hy vọng.
Vậy thời ý nghĩa của ngày TẾT, của cái thực thể huyền bí ấy mà người ta
sùng bái như một vị thần thánh có sức mạnh đến nỗi có thể khiến cho cả một dân
tộc, trong khoảng mấy ngày tròn, đã cùng một tâm hồn, cùng một tình cảm, mà
nhất là cùng một hy vọng tin tưởng ở ngày mai, hy vọng và tin tưởng mà nhiều
khi họ rất cần phải có, để đương đầu với một cuộc đời vất vả bấp bênh…
TẾT không phải chỉ là ngày đầu năm mà thôi, vì nếu kể cả những ngày sửa
soạn linh đình trước và những cuộc vui đùa giải trí sau, thì TẾT ít ra cũng
phải kể tất cả là ba tuần. Nhưng dù sao tâm trạng của người ta mà ngày TẾT đã
gây nên chưa dễ đã xóa nhòa trong chốc lát, và ta cũng nên thử nghiên cứu xem,
để tìm hiểu giá trị đặc biệt của ngày lễ long trọng ấy.
TẾT không phải hoàn toàn không có nghĩa lý, mà lại còn bao trùm cả một
“triết lý”.
Trong một năm bốn mùa liên tiếp nối nhau và đó là một hiện tượng tự
nhiên rất quan trọng cho một dân tộc nông nghiệp. Theo như thuyết “Vũ trụ khai
tịch” xưa, khoảng thời gian đông qua xuân tới là đánh dấu một thời kỳ hoàn toàn
đổi mới, người và vạn vật thiên nhiên như sống lại và cùng nhau thông cảm trước
sự đổi mới vui tươi để hăng hái đón mừng xuân mới. Trong mấy ngày cổ truyền ấy,
con người ta phải hoàn toàn đổi mới, lột hết những gì cổ hủ của con người cũ đi
mà tự tạo nên một tâm hồn mới mẻ; phải đuổi hết những tư tưởng yếm thế, phải
tạo ra những ý vui, chỉ nói những lời ngọt ngào dễ thương, quên hết những hận
thù, để đối với ai, – dù là kẻ thù chăng nữa- cũng một lòng khoan hồng bác ái.
Như thế là ta đã góp phần vào sự gây dựng vũ trụ điều hòa, và do đó gây dựng
hạnh phúc của xã hội và đồng thời hạnh phúc của chính mình. Những lời nặng nhẹ,
những cử chỉ không hợp phép, những sự buồn bực, bất bình thổ lộ ra trong những
ngày TẾT không những trái với lễ độ cổ truyền và rất kỵ trong những ngày tốt lành
nhất của một năm ấy mà lại là một sự phản bội đối với vạn vật thiên nhiên, và
như thế kẻ đã phạm tội ấy sẽ bị tai họa.
Dị đoan lại khiến cho người ta tin rằng tất cả những gì xẩy ra trong mấy
ngày đầu năm đều có ảnh hưởng huyền bí, hay, dở đến cả một năm. Vì vậy sáng sớm
ngày đầu năm, người khách đầu tiên đến nhà có thể coi như đã đem đến cho gia
đình ấy hạnh phúc hay tai họa, tùy theo nếu người ấy là một người sướng hay
khổ, có chức phận trong xã hội hay không, giàu hay nghèo, con cháu đông đủ hay
hiếm hoi, tính nết tốt hay xấu, nhiều may mắn hay không…Một người có tang vừa
đau khổ, một người rủi ro vừa bị thất bại trong công việc làm ăn…chớ nên đến
thăm ai trong buổi sáng đầu năm vì sợ có thể sẽ đem lại rủi ro đến cho người
ta. Để khỏi phải có những sự bất ngờ chẳng hay, người khách đầu tiên đến “xông
đất” mỗi nhà, nghĩa là người khách có thể coi như sẽ đem lại may mắn hay rủi ro
đến cho gia đình, đều được chủ nhà sắp đặt trước. Người ấy sẽ được lựa trong
những bà con bè bạn thân thiết và là người được coi như có hạnh phúc đầy đủ,
vừa giàu sang phú quí lại con cháu đầy đàn, để sáng sớm đầu năm làm “sứ giả”
đem Hạnh phúc đến cho cả gia đình.
HẠNH PHÚC! Hạnh phúc là cái mộng đẹp mà hết thảy chúng ta ai cũng mong
ước. Ở nước Nam này, mỗi năm xuân tới, người ta kêu gọi, cầu khẩn, tìm kiếm
Hạnh phúc bằng đủ mọi cách. Họ ca ngợi Hạnh phúc trên những câu đối đỏ chói
treo trên tường bên những cánh cửa nhà. Màu đỏ là màu tượng trưng điểm lành,
điểm tốt, vì vậy từ sân nhà cho đến trên bàn thờ, mỗi gia đình, chỗ nào cũng
rải rác đầy xác pháo đỏ cùng những cánh hoa đào. Người ta cũng thế, ai cũng có
vẻ tạo ra một vẻ mặt sung sướng, vui tươi, niềm nở như để dễ quyến rủ cái Hạnh
phúc nó như cái bóng phảng phất khó lòng mà nắm được, tựa hồ như con chim hoàng
oanh của nhà thi sĩ nọ, ríu rít hót ca trên cành liễu này rồi phút chốc đã lại
bay qua cành liễu khác. Thật không cái gì cảm động bằng cái lòng nguyện vọng
thiết tha của cả một dân tộc, nguyện vọng đến được một đời sống thanh nhàn hạnh
phúc, mà tất cả
đều mơ ước, nhưng dễ mấy ai đã tới được!
Ngày TẾT lại còn có một ý nghĩa khác nữa. Ngày TẾT còn là sự thánh hóa,
sự ca tụng, tán dương chủ nghĩa gia tộc và sự thờ phượng tổ tiên. Với tư cách
này TẾT có thể coi như một thiết lập có liên hệ mật thiết với sự thành lập gia
tộc ở nước Việt Nam ta. Mấy ngày TẾT chính là những ngày mà cả đại gia đình
đông đủ sống quây quần tụ họp làm một. Gia đình Việt Nam thường có cha mẹ, anh
chị em, hay là cả ông bà cô chú, có khi lại có cả cụ nội ngoại ở cùng cả một
nhà. Những gia đình có con cháu đi làm xa trong cả năm, đến kỳ TẾT đều trở về
đông đủ dưới mái nhà của tổ tiên. Những hôm đó trên bàn thờ trang hoàng rực rỡ,
những bài vị ghi tên tuổi các vị tổ tiên đã mất, đều được mở ra chưng bày,
những đèn hương sắp lên nghi ngút, những đồ mã tượng trưng nén vàng nén bạc để
cung hiến tổ tiên được chất thành từng đống.
Vì TẾT không phải chỉ là ngày vui cho người sống mà còn cả cho người
chết nữa. Chính trong những ngày TẾT các vị tổ tiên ông bà đều về sống chung
với gia đình con cháu. Hôm ba mươi Tết, mỗi gia đình đều có một lễ thỉnh mời tổ
tiên về. Rồi cứ mỗi ngày hai lần, dâng lễ cúng cơm cùng nước trà bánh trái. Đến
ngày thứ ba là ngày cúng tiễn biệt, để rồi hồn của tổ tiên lại trở về nơi chín
suối, mang theo lời chúc tụng cùng tâm sự của con cháu mà các ngài vừa được
chung sống trong mấy ngày Tết vừa qua, và tuy từ biệt ra về, tổ tiên vẫn không
quên phù hộ và che chở cho con cháu bằng một cách huyền bí.
Trong mấy ngày Tết, người sống và người chết lẫn lộn chung sống dưới mái
gia đình. Bà con bạn bè đến thăm viếng nhau ngày Tết, trước hết không quên đến
kính cẩn lễ trước bàn thờ tổ tiên rồi mới cùng nhau chúc tụng năm mới.
Tết với những tượng trưng và nghi lễ của ngày ấy đã ghi vào đời sống của
chúng ta một giai đoạn vui sướng, mà giai đoạn ấy chúng ta có cái may mắn là cứ
mỗi năm ta lại được sống lại một lần. Sống mấy ngày hoan hỷ vui chung cả quốc
dân, tự thấy mình đã cũng chia sẻ sự vui sướng ấy và cùng thông cảm với tất
những người đồng chung về một ý thức, một tư tưởng, đó là niềm vui không phải
nhỏ; niềm vui ấy, chính ngày Tết đã đem lại cho ta, và ta sẽ không bao giờ quên
ơn.
Riêng về phần tôi, mỗi lần ngó về dĩ vãng, nhớ lại những ngày thơ ấu,
những năm của tuổi trẻ đã qua, ngày Tết đã để lại cho tôi toàn những kỷ niệm êm
đềm.
Một ngày kia nếu phải bỏ phiếu để bãi bỏ cái ngày lễ ấy đi, thì dù ai
biện lẽ phải gì hay ho tốt đẹp đến đâu, tôi cũng bỏ phiếu chống sự bãi bỏ ấy,
mặc dầu họ có thể cho tôi là một anh thủ cựu bướng bỉnh hay liều lĩnh.
Thượng Chi (Phạm Quỳnh)