Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
Trong chương này, tôi sẽ trình
bày:
I. Tiểu sử của Tuệ
Trung Thượng sĩ.
II.Tinh thần
phá chấp triệt để:
A. Vấn
đề ăn chay và ăn mặn.
B. Vấn
đề giới luật.
III. Pháp môn bất nhị.
IV. Tinh thần
“hoà quang đồng trần”.
V. Vấn đề sống
chết.
VI. Kết luận về
Tuệ Trung Thượng sĩ.
I.
Tiểu
sử của Tuệ Trung Thượng sĩ (1230 – 1291):
Tuệ Trung là Pháp danh, tục danh là
Trần Tung hay Trần Quốc Tung. Ông là con trưởng của Trần Liễu, anh ruột của Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hoàng Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm (vợ của vua Trần
Thánh Tông và là mẹ của vua Trần Nhân Tông).
Ông là một tôn thất nhà Trần dưới vương
triều Trần Thánh Tông. Thuở nhỏ, Trần Tung bản chất thông minh.Lớn lên có sức học
uyên bác về nội điển (Kinh sách Phật
giáo) và ngoại điển (các sách vở ở
ngoài Phật giáo như Tứ Thư, Ngũ Kinh . . .). Nhờ ông đã có thiện duyên học hỏi
các vị đại sư tài giỏi người Việt Nam và Trung Hoa, nên ông đã trở thành một cư
sĩ thâm cứu sâu xa giáo lý nhà Phật và đã đạt được yếu chỉ của Thiền tông. Ông
tu tại gia, có vợ con và hầu thiếp (xem thêm phần Thượng sĩ hành trạng ở cuối
cuốn sách Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục).
Ông đã từng cầm quân đánh đuổi giặc
ngoại xâm Nguyên-Mông hai lần (1285 và 1287-1288). Sau khi kháng chiến thành công,
Trần Tung được phong chức Tiết Độ Sứ cai quản quân dân ở đất Lộ Hồng (hay Hồng
Lộ). Lộ Hồng vào thời Trần là một lãnh địa rất quan trọng về chiến lược đối với
Kinh đô Thăng Long. Vào thời Lê, Lộ Hồng gọi là trấn Hải Dương. Lộ Hồng vừa là
vựa lúa, vừa là vùng đất án ngữ để bảo vệ mặt phía Đông của Kinh Đô, ngăn cuộc
tấn công, nếu có, của địch quân từ biển Đông. Sau đó không lâu, ông lui về ấp Tịnh
Bang (nay là huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Rồi ông đổi tên là “Vạn Niên Hương” (Quê hương muôn tuổi), và
lập “Dưỡng Chân Trang” để tạo cảnh yên
tĩnh và tu hành thiền đạo. Đây không phải là chùa, không phải là am, mà là một
“dã thự” , một biệt thự nơi thôn dã,
có nhà, có vườn với một vùng phong cảnh xanh tươi khoáng đạt; đây chính là nơi ẩn
cư của ông. Nơi đây, Ông giảng dạy Phật pháp cho mọi người: dân, quan, vua, và
dìu dắt người sơ cơ.
Vua Trần Thánh Tông rất kính nể
kiến thức uyên bác của ông nên vua tôn ông là sư huynh và ban cho hiệu là Thượng Sĩ (1) , còn nhờ ông dạy
Phật học, thiền học cho Thái Tử, sau này là vua Trần Nhân Tông.
Xem thêm: Tư tưởng thiềnhọc của Tuệ Trung Thượng Sĩ trang (154 - 194)