Lời
giới thiệu : Bài viết “Trương Vĩnh Ký : Nhà văn Hoá Lổi Lạc” đã đăng trong Đặc San
Quốc Gia Hành Chánh, Toronto, tỉnh Ontario , Canada vào dịp Xuân Kỷ Mẹo (1999).
Bài này đã được đăng lại trong Đặc San Petrus Ký 2002 do Hội Ái Hữu Cựu Học
Sinh Petrus Ký Bắc California , USA thực hiện. Vào tháng 6 năm 2005, 3 cựu học
sinh Petrus Ký là TS Trần Văn Đạt , Lê Thành Lân và Phạm Hồng Đảnh đã chủ biên
tuyển lựa các bài viết về Petrus Ký trong nhiều thập niên qua để kết tập lại
thành một tuyển tập lấy tên là “Hiện Tượng Trương Vĩnh Ký”, đây là tựa bài viết
của GS Thạc Sĩ Hồ Hữu Tường đã đăng trong tờ Bách Khoa số 404, ngày 5 tháng 9
năm 1974. Đây cũng là bài nói chuyện của GS Hồ Hữu Tường (1910-1980) tại trụ sở
Trung Tâm Văn Bút Việt Nam ở Sài Gòn vào sáng ngày Chúa Nhật 28 tháng 07 năm
1974. Tuyển tập này gồm có 27 bài viết của 27 nhà biên khảo đầy uy tín như TS
Trần Văn Đạt, Phạm Hồng Đảnh, GS TS Nguyễn Thanh Liêm, Trần Ngọc Thạch, GS Đổ
Quang Vinh, GS Vũ Ký, Phạm Đình Tân, Nguyễn Văn Trấn, Quán Phong, GS Lê Văn
Đặng, Tân Văn Hồng, GS Dương Ngọc Sum, Nguyễn Vy Khanh v..v.. và tôi. Tuyển tập
này dày 463 trang, khổ sách 14 cm x 21 cm.
Giáo Sư Nguyễn Vĩnh Thượng
Nhà
bác học Trương Vĩnh Ký là một vì sao sáng của người trí thức Việt Nam. Nhắc đến
Trương tiên sinh ai ai cũng biết ông là nhà tiền phong trong việc phát triển
chữ Quốc ngữ, và là Chủ nhiệm kiêm chủ bút của tờ Gia Định Báo là tờ báo và
cũng là công báo viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên của nước ta. Bên cạnh đó,
Trương tiên sinh còn là nhà hành chánh lỗi lạc có nhiều khả năng chuyên môn
cùng với nhiều đức tính đáng quý mến của một người cha mẹ của dân (dân chi phụ mẫu) như tinh thần duy lý, chí công vô tư, thanh liêm trong lúc
thi hành nhiệm vụ. Trước khi tìm hiểu Trương tiên sinh trong lãnh vực hành chánh,
tôi xin trình bày vắn tắt tiểu sử và sự nghiệp văn hóa của ông để soi sáng một
phần nào về con người của ông, một nhà minh triết sống trong thời kỳ mà lịch sử
nước ta đã bước vào cơn sóng gió.
1.
Tiểu Sử:
Trương
Vĩnh Ký sanh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại Cái Mơn, làng Vĩnh Thạnh, tổng Minh
Lệ, huyện Tân Minh, hồi đó thuộc tỉnh Vĩnh Long nay thuộc tỉnh Bến Tre. Trương
tiên sinh là tín đồ đạo Thiên Chúa, có tên rửa tội là Jean Baptiste, và tên
thêm sức là Petrus Ký; tên đầy đủ là Petrus Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký,
thường gọi là Petrus Ký. Tiên
sinh có tự là Sĩ Tải. Cha là Trương Chánh Thi, làm quan võ dưới triều Minh Mạng
và Thiệu Trị. Mẹ là Nguyễn Thị Châu. Ông có một người chị và một người anh.
Mồ côi cha từ lúc lên 3 tuổi: cha ông bị bịnh và
mất ở Nam Vang, đang lúc thi hành nhiệm vụ cho triều đình Huế. Mẹ ông tảo tần
nuôi con và cho ông đi học chữ nho và đạo lý của Nho giáo với ông thầy đồ ở
cùng xóm khi ông lên 5 tuổi. Năm ông lên 9 tuổi, một vị Linh mục, tục gọi là cố
Tám, thấy thương tình cảnh mồ côi cha của ông và lại thấy bản chất thông minh
của ông nên đã xin ông đem về nuôi nấng và dạy dỗ chữ La Tinh và chữ Quốc ngữ ở
chủng viện Cái Nhum (Vĩnh Long). Khi cố Tám chết, một vị linh mục khác, tục gọi
là cố Long, ở bên Pháp qua, được phái đến giáo phận Cái Nhum. Cố Long đem ông
lên Nam Vang (Cao Miên) và cho vô trường đạo Pinhalu, lúc ấy ông được 11 tuổi,
để tiếp tục học đạo Thiên Chúa, học tiếng La Tinh (1848 - 1852). Ông Hiệu
trưởng trường này là một vị Linh mục, tục gọi cố Hòa. Trường đạo Pinhalu là nơi
quy tụ nhiều học sanh ở khắp các xứ Miên, Lào, Thái, Trung Hoa... Chính do sự
tiếp xúc với các học sanh từ các nước khác nhau đã làm nẩy nở khả năng thiên
phú của ông về ngoại ngữ. Ông là một học sanh xuất sắc, nên khi học hết lớp ở
trường Pinhalu thì được cố Long gởi đi học ở trường Giáo Hoàng (Collège
constantinien), một trường nhà chung tối cao cho Á Đông (Seminaire général) ở
đảo Pulau Penang, thuộc Malaysia bây giờ, ở ngoài khơi Ấn Độ dương do người Anh
cai trị. Lúc ấy ông ước mơ sẽ trở thành một linh mục. Ông học ở đây từ năm 1852
đến 1858: là tu sanh trau dồi tiếng La Tinh. Ở trường này, ông được tiếp xúc
với nhiều bạn học từ khắp nơi đến nên ông có cơ hội học tiếng Pháp, tiếng Anh,
tiếng Nhật, tiếng Ấn Độ . . . Ông luôn luôn tìm tòi các nền văn minh và văn hóa
của các dân tộc gắn liền với các ngoại ngữ mà ông thông thạo.
- Năm 1858, mãn khóa học 6 năm, lúc 21 tuổi, ông
trở về quê vì mẹ ông đã qua đời rồi. Ngày bước chân trở lại Sài Gòn, ông cảm
thấy bầu trời u ám, mẹ ông không còn nữa. Chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ở
Tourane (Đà Nẵng) ngày 01 tháng 9 năm l858; rồi ở Sài Gòn ngày 17 tháng 2 năm
1859, sau đó đến Gia Định năm 1861. Pháp lần lượt chiếm 3 tỉnh Biên Hoà (1861),
Định Tường (1861), Vĩnh Long (1862).
- Năm 1860, Giám Mục Lefèbvre, ở Sài Gòn, tiến cử
ông làm thông ngôn cho Pháp, ông thường được cử đi làm thông ngôn trong các
cuộc tiếp xúc quan trọng giữa Pháp và triều đình
Huế.
- Năm 1861, Petrus Ký lập gia đình, do Linh mục
Đoan làm mai. Ông cưới thiếu nữ Vương Thị Thơ, con gái ông Vương Văn Nguơn,
thầy thuốc làm chức Hương chủ trong làng Nhơn Giang (Chợ Quán).
- Năm 1863, triều đình Huế cử một phái đoàn qua
Pháp để thương lượng việc chuộc lại bằng tiền 3 tỉnh đã mất:
- Hiệp biện Đại học sĩ Phan Thanh Giản:
chánh sứ,
- Tả Tham tri Bộ lại Phạm Phú Thứ: phó sứ,
- Trương Vĩnh Ký: thông ngôn.
Phái đoàn rời bến Sài Gòn ngày 14 tháng 7 năm
1863, đến Paris ngày 13 tháng 9 năm 1863, Hoàng đế Napoléon III đã cho phái đoàn
vào chầu ở cung điện Tuileries. Hoàng đế Pháp và cả triều thần đều hết sức khen
cái tài nói tiếng Pháp rất trôi chảy và thanh tao của ông. Sau khi làm xong
phận sự, phái đoàn Phan thanh Giản đã đi chu du nhiều tỉnh của nước Pháp, Tây
Ban Nha và Ý Đại Lợi: Alicante, Barcelone, Madrid, Gênes, Florence, Rome. Tại
Rome, phái đoàn Việt Nam được Giáo Hoàng Pio Nono IX tiếp kiến trọng thể. Đức
Giáo Hoàng Pio Nono IX trị vì tại tòa Thánh Vatican từ năm 1846 đến 1878. Ngài
là một trong những vị Giáo Hoàng đã có thời gian trị vì lâu nhất ở Tòa Thánh
Vatican. Ngài đã triệu tập cộng đồng Vatican I với nhiều cải tổ mới để đẩy mạnh
phong trào canh tân Thiên Chúa giáo.
Chuyến công du 8 tháng nầy đã là một sự kiện rất
quan trọng đối với cuộc đời của Trương tiên sinh, nhờ tài ăn nói thông thạo tiếng
Pháp và các ngoại ngữ khác ở Âu châu, lại thêm vào đó sự lịch thiệp trong cách
cư xử mà ông đã kết bạn được nhiều danh nhân, văn hào, khoa học gia ở Paris như
Victor Hugo, Emest Renan, Paul Bert . . .Petrus Ký đã viết. “Trong dịp đó tôi trở về với tâm hồn sung sướng vô cùng. Thành phố Ba Lê
một đô thị uy nghi nhứt hoàn cầu mà tôi có dịp thăm viếng vào năm 1863 và tôi
cũng đã gặp gỡ nhiều thân hữu danh tiếng và bác học, nhứt là văn học và khoa
học.
Khi xa rời những buổi học tập cao quý đó, tôi đã thu thập nhiều kinh
nghiệm và nhiều kiến thức.”
Trương Vĩnh Ký và phái đoàn về tới Sài
Gòn ngày 18 tháng 3 năm 1864. Trở về Sài Gòn, ông lại tiếp tục làm thông ngôn
cho Súy phủ Sài Gòn.
- Từ năm 1864 đến 1868, ông được bổ
làm giáo sư và rồi trở thành ông Đốc Học của trường Thông Ngôn (Collège des Interprètes),
được thành lập từ ngày 16 tháng 7 năm 1864. Đồng thời ông cũng được bổ làm trợ
bút cho tờ công báo đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ là tờ Gia Định Báo từ đầu năm
1868, rồi được Thống Soái Nam Kỳ G. Ohier cử làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tờ này
vào tháng năm 1869.
- Tháng l năm 1871, ông được bổ làm
giáo sư trường Sư phạm thuộc địa và được phong chức Huyện.
- Tháng 6 năm 1872, ông được cử làm
thông ngôn cho phái bộ Y Pha Nho ra Huế để điều đình với triều đình Huế về việc
mở nghị ước giao hảo và buôn bán.
- Năm 1873, Ông được mời dạy Hán văn
và Việt văn ở trường Tham Biện Hậu Bổ (Collège des Stagiaires), rồi làm Chánh
Đốc học trường này vào năm 1875.
Petrus Ký đã hưởng được danh vị “Khuê
Bài Dũng Sĩ Cứu Thế” vào tháng 10 năm 1868 và làm hội viên của nhiều hội đoàn ở
Pháp như Hội Nhân Văn Khoa Học vùng Tây Nam nước Pháp, Hội Nhân Chủng Học, Hội
Giáo Dục, Hội Á Châu, Hội Địa Lý Paris.
- Năm 1874, một danh dự lớn lao đã
đem đến cho “người thầy giáo xuất chúng của đất Nam Kỳ” (Le maître très brilliant de la Cochinchine) là việc Ông được
đề cử vào cuộc chọn lựa “Toàn Cầu Bác Học
Danh Gia”, Petrus Ký đã được đoạt giải và đứng vào hạng thứ 17 trong số 18
văn hào thế giới: “Thế Giới Thập Bát Văn
Hào”, đó là một phần thưởng xứng đáng cho sự nghiệp trước tác và sáng tác
của Ông.
Hoàn cảnh lịch sử nước ta biến
chuyển mãnh liệt: đất Nam Kỳ lần lượt lọt vào tay người Pháp, tháng 2 năm 1861,
Đô đốc Charner chiếm đồn Chí Hòa rồi tiến chiếm Tây Ninh, Mỹ Tho… đến tháng 6
năm 1867, Đô Đốc De Lagrandière chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây; Vĩnh Long, An Giang
và Hà Tiên. Ở đất Bắc Kỳ, vào tháng l l năm 1873 Thiếu tá Francis Garnier tấn
công thành Hà Nội và mở đầu cuộc xâm lăng Bắc Kỳ. Hà Nội thất thủ. Rồi Pháp
tiến chiếm các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hải Dương, Ninh Bình , Nam
Định.
- Năm 1878 (Ất Hợi), Ông được Thống
Đốc Duperré cử ra Bắc Kỳ trong 3 tháng để nghiên cứu về tình hình chính trị vào
lúc bấy giờ. Ông vừa làm công việc nghiên cứu cho Súy phủ Pháp ở Sài Gòn, và
nhân cơ hội đó Ông vừa đi thăm viếng các di tích lịch sử và tìm hiểu thêm về
đời sống của người dân xứ Bắc để viết tập hồi ký: “Chuyến Đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi”. Trở về Sài Gòn, nhân lúc chính quyền
Pháp tổ chức Xã Tây (Municipalité Francaise), Ông được đề cử làm hội viên của
Hội đồng thành phố này, rồi được cử làm hội viên Hồi đồng học chánh thuộc địa,
và được bổ làm Offlcier d’Académie năm 1883, với chức vị mới này, Ông đã có
những đề nghị hữu ích và được chấp thuận:
- Việc bắt các quan hậu bổ người
Pháp học tiếng Annam .
- Việc dạy tiếng Pháp cho học trò
nhỏ Annam .
- Việc cấp học bổng và cho thanh
niên du học ở bên Pháp.
Trương tiên sinh đã bắt đầu sự
nghiệp viết lách từ năm 1863 về các loại ngữ pháp, lịch sử, hồi ký . . . , đến
năm 1882, có một sự chuyển hướng: Ông viết về các loại tùy bút, triết học, dịch
các bài văn Annam, và Trung hoa ra chữ Quốc ngữ, phê bình sách. Chúng tôi sẽ
liệt kê sự nghiệp trước tác và sáng tác của Ông trong 30 năm ở phần sau này.
- Năm 1881, con ông là Félix Trương
Vĩnh Ký chết lúc mới lên 3 tuổi.
- Năm 1882, lại một người con nữa tên
Trương Vĩnh Tiên chết.
- Ngày 5 tháng 7 năm 1885, kinh đô
Huế thất thủ, cả nước Việt Nam
đã lọt vào tay người Pháp.
- Tháng l năm 1886, Paul Bert, bác
sĩ y khoa, tiến sĩ khoa học, hội viên hội Hàn lâm khoa học, giáo sư trường đại
học Bordeaux rồi Paris, Bộ Trưởng bộ Giáo Dục, được cử làm toàn quyền xứ Annam
và Bắc Kỳ. Paul Bert đã biết năng lực học thức của Petrus Ký nhân khi phái đoàn
Phan Thanh Giản đến Paris hồi năm 1863, cho nên, khi Paul Bert đến Sàigòn tháng
2 năm 1886, ông đã đến thăm Trương Vĩnh Ký. Tháng 4 năm 1886, Paul Bert ra Hà
Nội. Paul Bert đã trọng dụng và cử Petrus Ký làm việc bên cạnh triều đình Huế
vào tháng 4 năm 1886. Nhân đó Ông dạy Pháp văn cho vua Đồng Khánh và được vua phong
làm Hàn Lâm Viện Thị Giản Học sĩ. Ở Huế vài tháng thì Ông bị bệnh phổi nên xin
trở về Sài Gòn dưỡng bịnh vào tháng 8 năm 1886. Vua Đồng Khánh rất quý tài của
Ông nên đã ban biệt hiệu Nam Trung Ẩn Sĩ và tặng nhiều bửu vật và một bài thơ
chữ Hán để tỏ lòng lưu luyến, bài thơ nầy đã được Ông Trương Vĩnh Tống, con ông,
dịch ra thơ lục bát bằng chữ quốc ngữ. Tháng 11 năm 1886, Paul Bert qua đời,
Petrus Ký liền cáo bịnh để xin từ chức quan ở triều đình Huế. Trở về Sài Gòn,
Ông tiếp tục làm việc cho Súy phủ Sài Gòn.
- Năm 1887, Liên Hiệp Đông Dương ra
đời: Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Cao Miên; tháng 4 năm 1888, ông được cử đi Bangkok
để giải quyết vấn đề giữa Thái Lan với các nước Đông Dương.
- Năm 1888, trường Thông Ngôn đóng
cửa, ông chỉ đi dạy chữ Hán và tiếng Miên tại trường Hậu Bổ. Từ đây, ông dành
nhiều thì giờ cho việc viết văn và in sách và lấy đó làm niềm vui trong những
ngày cuối của cuộc đời ông. Năm 1888, Trương tiên sinh tự bỏ tiền túi ra xuất
bản tạp chí Thông Loại Khóa Trình với mục đích phổ biến văn hóa dân tộc, đạo lý
cổ truyền và có nhiều bài thơ chống chính phủ thuộc địa Pháp của Nguyễn Chánh
Chiếu, Nguyễn Tri Phương, Bùi Hữu Nghĩa.
Những ngày cuối đời, Ông bị bịnh
hoạn liên miên và sống trong cảnh nghèo túng. Nhưng Ông vẫn tiếp tục say mê
viết lách, vẫn tiếp tục xuất bản sách. Càng chăm chú vào việc viết sách, càng
khiến Ông bị lao tâm và suy giảm sức khoẻ. Càng xuất bản sách, càng làm cho nợ
nần chồng chất vì sách bán rất chậm. Lê Thanh trong bài biên khảo về Trương
Vĩnh Ký trong “Phổ Thông Chuyên San” số 3, tháng 9 năm 1943 ở Hà Nội có trích
dẫn mấy dòng tâm sự của Trương tiên sinh ở trong nhật ký, có mấy chỗ bị mối ăn
không còn chữ:
“Bị
hai cái khánh tận, nhà in ... nơi nhà ... mất hơn năm sáu ngàn đồng bạc. Phần
thì sách vở bán không chạy, mắc nợ nhà in Rey ét Curiol, phần thì bị... phải
bảo lãnh nợ cho nó hết hơi. Lại thêm phát đau hư khí huyết ...”
Ngày l tháng 9 năm 1898, Petrus Jean
Baptiste Trương Vĩnh Ký trút hơi thở cuối cùng tại Chợ Quán, Sàigòn, hưởng thọ
được 61 tuổi, trước sự luyến thương của rất nhiều người trong nước từ Bắc chí
Nam và ở nước ngoài như ở Âu Châu, Miến Điện, Trung Hoa. Ông đã để lại một công
trình văn hóa khổng lồ về văn học, chữ quốc ngữ, về một nền học thuật mới cho
dân tộc. Sau ngày tiên sinh qua đời, có rất nhiều nhà văn, nhà thơ khóc thương
tiên sinh. Tôi xin trích dẫn các bài sau:
Bài văn tế Khóc Thầy Xưa của 3 người
học trò của tiên sinh:
Thương
thay! Thầy ta là quan lớn
Sĩ
Tải Trương Vĩnh Ký
Nhớ
Thầy xưa,
Nên
đấng thông minh,
Thiệt
trang văn phú ;
Sang
dường ấy, trọng dường ấy,
Ngó
công danh, trong mắt như không!
Kiêu
chẳng hề, lẩn chẳng hề,
Xem
tánh hạnh trong đời ít có.
Việc
chữ nghĩa nhọc lòng biên đặt,
Lắm
thuở công phu ;
Dạy
học hành ra sức vun trồng,
Nhiều
lời khuyên dỗ
Ôi!
Tưởng
còn lâu hưỡng lộc trời
Nay
đã sớm lìa cõi thọ
Bướm
Trang Sanh một giấc mình cõi chốn vi cơ,
Hạt
Đinh Lịnh trăm năm, hồn nương nơi vân vụ.
Người
tuy mất mà danh chẳng mất, tiếng hảy còn đây.
Coi
sách Thầy mà học ý Thầy, hình như Thầy đó
Hỡi
ôi! Tiếc thay! Hỡi ôi! Thương thay!
Môn
sanh: Trương Minh Ký,
Diệp Văn Cương, Nguyễn Trọng Quản đẳng đồng bái.
4 tháng 9 năm 1898.
Diệp Văn Cương, sanh tại quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc
(nay là tỉnh Đồng Tháp), hiệu là Yên Sa, được học bổng đi học ở Alger, đậu bằng
Tú Tài đôi. Ông là người kế vị ông Trương Vĩnh Ký, sau khi Trương tiên sinh xin
từ chức để trở về Sài Gòn. Diệp Văn Cương cưới vợ là bà Công chúa, em ngài Dục
Đức. Khi vua Đồng Khánh băng hà, ông Cương tìm cách đưa cháu vợ mình lên ngôi
là vua Thành Thái. Năm 1919, ông về dạy Việt văn ở trường trung học Chasseloup
Laubat tại Sài Gòn.
Trương Minh Ký tên nguyên thủy là Trương
Minh Ngôn sinh năm 1855, tại làng Hạnh Thông, thuộc Bình Trị Hạ,
huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Ông thuộc dòng dõi của ông Trương Minh
Giảng, hiệu Thế Tải, học trò của Ông Trương Vĩnh Ký, là một nhà giáo,
nhà báo, nhà văn hóa có nhiều đóng góp quan trọng trong việc phát triển
nền văn học Quốc ngữ Việt Nam.
Nguyễn Trọng Quản quê tỉnh Bà Rịa (nay là tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu) là học trò và cũng là con rể của Trương Vĩnh
Ký. Ông cùng Diệp Văn Cương, Trương Minh Ký là những người Việt Nam
đầu tiên được đi du học ở Lycée d’Alger (Bắc Phi) của Pháp. Sau khi tốt nghiệp,
ông về nước làm giáo viên rồi làm giám đốc các trường Sơ học vào những năm
1890-1900 ở Sài Gòn. Ngoài một nhà giáo, nhà văn, Nguyễn Trọng Quản còn là
người có khả năng hội hoạ; chính ông đã vẽ các tranh minh hoạ trong tiểu thuyết Phan
Yên ngoại sử của Trương Duy Toản, xuất bản năm 1910 ở Sài Gòn. Ông mất năm Tân
Hợi (1911) tại Sài Gòn, hưởng dương 46 tuổi.
Bài điếu từ của M. Picanon, Thống Đốc Nam Kỳ, do
Trúc Viên Đặng Thúc Liêng dịch có đoạn như sau:
“Vì quan
Toàn quyền, vì thuộc địa và lại vì tôi đứng giữa đây đặng tỏ lời từ giã một vĩ
nhân, là giáo sư kiến thức . . . (…) Tôi xin tỏ cùng bửu quyến của tiên sanh
cái tấm lòng thành thật của tôi, và xin tỏ ý rằng những người giúp việc cho
chánh phủ thảy đều đau đớn, yêu mến tiên sanh như tôi vậy.
Từ
này về sau Trương tiên sanh đã bỏ trống cái ngôi dạy tiếng Á Đông đi rồi! Ngày
sau có ai mà xứng đáng lãnh cái chức trách ấy nữa ?
Chắc
tiên sanh cũng đem theo vào mồ nhiều sự mến yêu của các người đã từng quen
thuộc với tiên sanh, đã biết tiên sanh là nhà đạo đức văn chương.
Trương
tiên sanh ôi! Từ đây vĩnh biệt, hết trông gặp mặt nhau rồi.”
2. Sự nghiệp trước tác và sáng tác của Petrus Ký
Trong suốt 30 năm sáng tác và trước tác, Ông đã để
lại một công trình văn hóa khổng lồ; trên 120 bài viết và sách.
2.1. Tủ sách gia đình
Tháng 7 năm 1958, Trương Vĩnh Tống, con của Petrus
Ký đã đem tặng viện Khảo Cổ Sài Gòn tất cả những tài liệu và sách vở trong thư
viện gia đình của thân phụ ông mà ông còn giữ lại. Ông Tống đã kê khai thành 12
loại như sau:
- Địa lý, Sử ký, Ngôn ngữ học, Khoa học ;
- Giáo dục, Chính trị, Kinh tế, Nho học, Phật học ;
- Văn chương, Văn học sử, Tiểu sử.
Ngoài ra, còn có rất nhiều bản thảo chưa in. Các
bản thảo này do chính Trương Vĩnh Ký chép tay, hiện còn tàng trữ tại các nơi
sau đây:
(i)
Thư
viện Khoa Học Xã Hội Trung Ương ở Hà Nội ;
(ii)
Thư
Viện Khoa Học Xã Hội tại Sài Gòn, gồm có các bản thảo do Trương Vĩnh Tống đã
tặng Viện Khảo Cổ Sài Gòn hồi năm 1958 ;
(iii)
Nhà
thờ chợ Quán ở Sài Gòn.
2.2. Tác phẩm
Chúng ta có thể phân loại các tác phẩm của ông
thành các loại chính sau đây:
2.2.1.
Các sách dạy ngôn ngữ;
hoặc dạy tiếng Pháp cho người Việt, hoặc dạy chữ Hán cho người Việt và người Pháp:
Abrégé de Grammarie Annamite (1867), Cours Pratique de Langue Annamite (1868),
Cours de Lague Mandarine ou de Caractères Chinois (1875)..., Vocabulaire
Annamite Francais (1887), Tam Thiên Tự Giải Âm (1877), Dictionnaire Francais
Annamite (1884) ...
2.2.2.
Các sách giáo khoa mà Ông
đã soạn cho Nha Học Chánh Nam Kỳ: quyển Manuel des Écoles Primaires nội dung
gồm có: Histoire Annamite, Histoire Chinoise (1870), cuốn này còn được viết
bằng chữ quốc ngữ nữa. Các cuốn sách viết bằng tiếng Pháp để dạy về địa lý và
sử ký Việt Nam: Petit Cours de Géographie de la Basse Cochinchine (1875), Cours
d’histoire Annamite à l’Usage des Écoles de la basse Cochinchine (1875) . ..
2.2.3.
Các bài biên khảo viết bằng tiếng Pháp dành cho các độc giả Việt và Pháp có học thức:
Souvenirs Historiques sur Saigon et ses Environs (1883). Flores Annamites
(1884)
Études Comparées des Langues et Écritures
des 3 Branches Linguistiques (1894) .. .
2.2.4.
Các sách viết bằng chữ quốc ngữ là những công trình tiền phong về chữ Quốc ngữ trong lịch sử văn học Việt
Nam cận đại. Chúng ta có thể phân làm các loại sau đây:
a. Các bản dịch ra chữ Quốc ngữ của các sách viết
bằng chữ Hán của các nhà nho: Trung Dung (1875), Mạnh Tử Tập Chú (1875), Sơ Học
Vấn Tâm (1877), Đại Học (1877), Tam Tự Kinh Quốc Ngữ Diễn Ca (1884), Minh Tâm Bửu
Giám (1893).
b. Các bản diễn âm ra chữ Quốc ngữ các tác phẩm
văn Nôm của các nhà nho xưa với những chú giải: Kim Vân Kiều (l 875), Đại Nam
Quốc Sử Diễn Ca (1875), Huấn Nữ Ca (1882), Thơ Dạy Làm Dâu (1883), Gia Huấn Ca
(1888), Lục Súc Tranh Công (1887), Phan Trần (1889), Lục Vân Tiên (1889)...
c. Các bài do Ông sáng tác bằng chữ quốc ngữ:
Chuyện Đời Xưa (1886), Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi (1876), Gia Định Phong Cảnh
Vịnh (1882), Trương Lương Tùng Xích Tòng Tử Du Phú (1881), Trương Lương Hầu Phú
(1882), Ngư Tiều Trường Điệu (1882), Cờ Bạc Nha Phiến Diễn Ca (1885). . .
Chúng ta thấy trong tủ sách gia đình của ông
Trương Vĩnh Ký có cả sách nghiên cứu Phật học nữa như quyển Quan Âm có bút tích
của Ông viết bằng chữ Pháp được 2 trang giấy.
Trong toàn bộ tác phẩm của Ông, ta không thấy có
bài nào viết về đạo Thiên Chúa. Mặc dù Trương Vĩnh Ký là tín đồ Thiên Chúa giáo
và Ông đã hấp thụ sự giáo dục ở các trường thầy dòng mà cách giáo dục ở đây
không theo truyền thống Á đông, nhưng trong phong cách và tư tưởng của Trương
tiên sinh chúng ta thấy Ông quả là một nhà Nho thuần thành, một bậc thâm Nho
đáng kính mến. Ông tin tưởng rằng các giá trị tinh thần truyền thống phải được
bảo tồn vì các thế giá này đã tạo nên nền đạo lý tốt đẹp trong xã hội ta. Ông
đã hô hào cải cách học vấn, thay đổi hình thức giảng dạy và học tập mới bằng
cách sử dụng chữ Quốc ngữ dễ học hơn chữ Hán tự và chữ Nôm, có như vậy giáo dục
mới có tính đại chúng tức là ai ai cũng có thể học được, trước đây sự học vấn
chỉ là đặc ân cho một số người mà thôi.
3. Petrus Ký : Nhà hành chánh lỗi lạc
Ngoài việc làm thông ngôn, dạy học, viết sách,
Trương tiên sinh còn đảm nhận những chức vụ hành chánh trong thời gian hợp tác với
Pháp. Trong lúc thi hành nhiệm vụ lúc nào Ông cũng lấy sự an nguy của dân tộc
làm ánh sáng soi đường cho việc làm của Ông, Ông luôn luôn ước mong với nhiệm
vụ của mình sẽ là một cơ hội để đem lại sự thịnh vượng cho đất nước. Ông đã
được đề cử vào chức vụ hành chánh nhiều lần, đặc biệt vào năm 1876, Thống Đốc
Duperré cử Ông ra Bắc Kỳ để nghiên cứu tình hình chính trị ở đây. Năm 1886,
Toàn quyền Paul Bert cử Ông làm việc bên cạnh triều đình Huế từ tháng 4 đến
tháng 8 năm 1886.
3.l. Gia Định Báo
Tờ công báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, dưới sự
quản lý rất giỏi của Trương tiên sinh. Theo Huỳnh Văn Tòng trong quyển “Lịch sử Báo Chí Việt Nam”, Saigon: Trí
Đăng 1973; đây là luận án Tiến sĩ đệ tam cấp trình ở Đại học Paris năm 1971;
vào năm 1863, Thống Soái Nam Kỳ Lagrandière (nhậm chức từ tháng 5 năm 1863 đến
tháng 4 năm 1868) đã cho ra đời tờ báo bằng tiếng Pháp “Le Courier de Saigon”,
rồi hai năm sau là ngày 15 tháng 4 năm 1865, ông cho ra đời tờ Gia Định Báo, số
l, và bổ nhiệm ông Ernest Potteaux làm chánh tổng tài (tức chủ nhiệm kiêm chủ
bút bây giờ) trông nom, Đốc phủ sứ Paulus Huỳnh Tịnh Của đảm nhiệm dịch các
nghị định, thông báo của Thống Soái phủ Nam Kỳ từ chữ Pháp ra chữ Việt; lúc này
mỗi tháng ra một số vào ngày 15 gồm có 4 trang giấy khổ nhỏ, nội dung toàn là
phần công vụ. Nói khác đi, Gia Định Báo chỉ là một tờ công báo thuần túy mà
thôi.
Ngày 6 tháng 9 năm 1869, tân Thống soái Nam Kỳ G.
Ohier bổ nhậm ông Trương Vĩnh Ký vào chức chánh tổng tài của tờ Gia Định Báo có
hưởng lương hàng tháng. Đốc phủ Paulus Của vẫn còn là nhân vật nồng cốt trong
ban biên tập, Huỳnh Tịnh Của là tác giả quyển “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” xuất bản
vào năm 1895.
Vừa nhận nhiệm vụ chủ nhiệm kiêm chủ bút xong,
Trương tiên sinh liền cho cải tổ về hình thức lẫn nội dung của tờ Gia Định Báo
ngay.
Về
hình thức: mỗi tháng xuất
bản 2 kỳ, rồi sau đó tăng lên 4 kỳ, số trang tăng lên đến 16, có khi đến 20;
vẫn còn khổ nhỏ.
Về
nội dung: được thêm nhiều
tiết mục phong phú hơn trước, chia làm 2 phần: Phần công vụ, 4 trang, vẫn tiếp
tục đăng các qui định, thông báo của Súy Phủ. Phần tạp vụ, 12 trang có khi 16
trang, đăng các bài thơ, phú, truyền thuyết, tiểu luận về lịch sử, văn hóa.
Trong suốt 4 năm (1869 - 1872) quản trị tờ Gia
Định Báo, Trương tiên sinh luôn luôn khuyến khích các công chức Việt Nam viết
bài vở hoặc gởi tin tức về cho tờ báo với mục đích tập luyện viết văn bằng chữ
quốc ngữ và tập làm báo. Tờ Gia Định Báo được tài trợ bởi Thống Súy Phủ nên
được phát không cho các làng, xã và trường học. Tờ Gia Định Báo đã được sự ái
mộ của dân chúng, rất nhiều người chỉ mong đợi cho tới kỳ phát báo để lấy báo
đem về nhà đọc, có khi họ còn đọc to lên để cho người không biết chữ quốc ngữ
cùng nghe. Hồi đó họ gọi tờ báo là tờ nhựt trình.
Bùi Đức Tịnh trong quyển “Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (l865 - 1932)”
xuất bản ở Sài Gòn năm l992, trang 37 và 38 đã nhận định :
“Trong chức
vụ chánh tổng tài Gia Định Báo, ông đã tìm một phương hướng để thực hiện cuộc
duy tân (…). Từ trước và khi bắt đầu Pháp thuộc vẫn tiếp tục theo đà có sẵn,
người trí thức chỉ mong thi đỗ để làm quan. Khuyến khích và tạo điều kiện tập tành
cho các thầy thông ngôn, ký lục, thầy giáo tập viết báo, viết văn, thật sự Trương
Vĩnh Ký đã gây một cuộc Minh Tân nhỏ trong giới văn học trước khi những người
chủ trương Nông Cổ Mín Đàm và Lục Tỉnh Tân Văn 'mở cuộc Minh Tân' trong lãnh
vực kinh tế.”
Tại Bắc Kỳ, từ khi Pháp đặt chân đến đây vào năm
1885, họ đã cho ra hai tờ nhật báo viết bằng tiếng Pháp là tờ Avenir du Tonkin
và tờ Courier d’ Haiphong.
Năm 1890, tại Hà Nội, Toàn quyền De Lanessan cho
phát hành tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo viết bằng chữ Hán để đăng tải các công
văn và chỉ dụ của chính phủ thuộc địa, mãi đến năm 1907 tờ này mới có chữ Quốc
ngữ bên cạnh phần chữ Hán. Năm 1905, tại Hà Nội, ông Babut, một tư nhân người
Pháp, cho ra tờ Đại Việt Tân Báo có một phần chữ Hán và một phần chữ Quốc ngữ
và giao cho nhà nho Đào Nguyên Phổ làm chủ bút.
Như vậy, sự sinh hoạt văn hóa bằng chữ Quốc ngữ đã
xuất hiện ở Nam Kỳ 40 năm trước khi ở Bắc Kỳ. Petrus Ký quả là vị Tổ của làng
báo chí bằng chữ Quốc ngữ.
3.2. Petrus Ký : Nhà hành chánh chí
công vô tư
Năm 1876 (Ất Hợi), Thống Đốc Duperré cử Ông ra Bắc
Kỳ để nghiên cứu tình hình chính trị ở đây trong 3 tháng. Đọc tờ trình này, ta
thấy Ông có những nhận định rất sâu sắc và xác thực về tình hình chính trị và xã
hội của ta lúc bấy giờ ở đất Bắc; Ông là một nhà hành chánh duy lý (rational)
đã không để mọi thiên kiến và sự vị nể về tôn giáo ảnh hưởng vào việc công.
Trong tập du ký “Chuyến đi Bắc năm Ất Hợi”, từ 14 tháng 01 đến l0 tháng 4 năm 1876,
có phần ghi lại tờ trình gởi tham mưu trưởng Regnault de Promesnil để chuyển
cho Thống đốc Duperré như sau:
Sài
Gòn, ngày 28 tháng 4 năm 1876
Thưa
Tham mưu trưởng,
Tôi
xin gởi đến ông bản báo cáo mà ông cần về tình hình chính trị ở Bắc Kỳ mà tôi
vừa đi xem. (bỏ qua phần tường thuật về cuộc hành trình từ Saigon ra đất Bắc).
Tôi
xin phép được nói thật thà, có sao nói vậy, vả lại tôi cũng phải bảo vệ danh dự
của tôi là người được hỏi.
Tôi
không nói những xích mích dường như đã xảy ra giữa bổn xứ theo đạo, với giáo
xứ. Những cái đó tôi không được rõ lắm.
Trước
hết tôi nói sự kinh ngạc của tôi đối với cảnh thảm hại hận thù tôn giáo, họ
ghét nhau dữ lắm. Và trong những việc vừa xảy ra, nếu những nho sĩ và những
người khác bên lương đã làm những tội ác ghê gớm thì sự thật là người bên giáo
cũng chẳng vừa gì trong việc báo thù. Khi tôi đến thăm các giáo xứ, tôi có bày
tỏ với các ngài nỗi lo sợ của tôi. Tôi cố gắng làm cho họ thấu trước, tai hại đối
với giáo dân, gây ra bởi hành vi thiếu suy nghĩ của vài người bên giáo. Tôi còn
cho rằng giới giáo sĩ đi quá xa trong quyền lợi của họ, và khư khư đòi đền bồi
thiệt hại trước thái độ biết điều của những nhà chức trách bên lương, tôi dám nói
rằng họ lắm khi cũng chịu khổ từ phía những người xấu bên đạo. Về điều này tôi
chỉ xin kể việc ông Tổng Đốc Nam Định đã nhìn làng mạc nhau rún bị cướp, bị đốt
và một số người trong gia đình chết thê thảm bởi hành vi của những người Cơ-rê-chiêng.
Thôi cho tôi phủ một tấm vải che lên cảnh thảm khốc của cuộc chiến tranh tôn
giáo này.
Còn
như cái cảnh mà tôi sắp trải ra trước mắt ông, cũng không kém buồn thương. Thú
thiệt, ngực tôi phập phồng, lòng tôi buồn bực trước cảnh đói khó đang nhiễu hại
đám dân khổ này của xứ Bắc Kỳ.
Tôi
đã nghiên cứu kỹ các tầng lớp xã hội, rồi một nỗi thương đau chiếm ngập lòng tôi.
Nhưng ở đây hãy để cho tôi nói mấy lời cảm cảnh với các nhà cầm quyền địa
phương. Họ biết tôi là người khách, có trùm đầu bằng cái áo hộ mạng của nhà
nước Pháp, mà họ vẫn tiếp niềm nở, đàng hoàng, lễ phép chân chất.
(....)
Người có tiền của, run sợ mà
dấu diềm huê lợi của họ. Người buôn bán thì trốn chui trốn nhủi. Người công kỹ
thuật âu lo, bởi vì gia tài của Ất, của Giáp đều như phú thác cho tham ô của cả
một guồng máy quan liêu.
Trong khi ấy, đông đảo người
dân - những người không có ai coi ra gì - người thợ ư ? người lao công, cày
ruộng ư ? Đều rên siết vì nghèo khó tột cùng và đang trải qua những ngày dài không
cơm ăn, không việc làm.
Và sự đói nghèo trong dân đà
quá mức, khắp nơi rống tiếng hét gào sửa đổi, đòi một sự cai trị đủ sức trị an,
để đem ngày mai lại cho dân, để bảo đảm quyền sở hữu, để đem lại cho công nghệ và
thương mại sự an toàn và sự hoạt động cần thiết cho chúng sống. Tóm lại là kéo
khỏi vực thẩm, kéo ra khỏi nạn đói, dân đen đang hấp hối.
(...)
Nhưng đối với tôi, không có gì
nghi ngờ, ảnh hưởng của nhà nước Pháp sẽ gây được không mấy khó khăn và sẽ có
sức nặng trong sự thi hành những cải cách cần thiết: cải cách chánh trị, cải
cách kinh tế.
Trong lòng tôi đọng lại niềm
tin thắm thiết rằng Triều đình Huế nếu không có sự giúp đỡ thì không đủ sức làm
cái công việc đồ sộ như vậy và chỉ có nước Pháp là có sức đỡ đần dân tộc đang
héo hắt này, nếu Triều đình thiệt lòng tin cậy vào sự giúp đỡ bảo hộ của nó.
Thưa Tham mưu trưởng,
Đó là những nhận xét chung mà
tôi có bổn phận trình bày với Ông.
Cuối cùng, tôi mong rằng quan
Toàn Quyền đã có chủ tâm lớn đến quyền lợi của dân chúng khốn khó thì hãy ban
cho các câu chuyện vừa kể một sự rộng xét và tin tưởng nó là kết quả của một sự
xem xét cẩn thận trong khi tôi làm nhiệm vụ nhỏ nhoi này.
Ký tên Petrus Trương Vĩnh Ký.
Nếu
đọc lại bản phúc trình trên một lần nữa, chúng ta càng khâm phục cái tinh thần
duy lý của Ông, cái lập trường loại bỏ những vị nể tôn giáo hay tín ngưỡng, cái
lập trường loại bỏ những thiên kiến của người tín đồ cuồng tín. Thật vậy, chúng
ta đều biết rằng, Ông là người theo đạo Thiên Chúa Giáo vào thời ấy. Trước đó,
theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì vào năm 1533, vua Lê Quang Tông
đã ra chỉ dụ Cấm Đạo Gia Tô“ và từ đó kéo theo các việc dẹp đạo cho đến thế kỷ
XIX. Nhưng Ông được người Pháp trọng vọng. Chúng ta thấy Ông đã thẳng thắn lên
án các người theo đạo Thiên Chúa trả thù và lộng quyền đàn áp lại người lương
khi họ dựa vào thế lực người Pháp. Đây là một triết lý chính trị rất đáng suy
nghĩ. Thêm vào đó, trong tờ trình chúng ta còn thấy Ông đã động lòng trắc ẩn
đối với nhiều người dân nghèo thiếu ăn thiếu mặc, Ông cũng thẳng thắn lên án
bọn quan lại tham ô.
Trương
tiên sinh quả đã có một nhận định rất sâu sắc và sáng suốt về thời cuộc ở Bắc
Kỳ vào lúc ấy, về tình trạng quan lại tham nhũng, nạn cường hào ác bá, dân tình
đói khổ, tình hình xung đột đẫm máu giữa người lương kẻ giáo. Rồi Ông mạnh dạn đề
nghị rằng việc cần thiết nhất là phải thi hành một cuộc cải cách hành chính,
cải cách tư pháp, cải cách kinh tế.
Tinh
thần chí công vô tư trong công vụ hòa cùng với lòng cảm thông mến nước thương
dân của Ông quả là một thái độ của bậc trí thức cao thượng, của một hành chánh
chân chính. Lòng yêu nước còn được thể hiện tận đáy lòng, bởi vì nhịp đập của trái
tim Ông lúc nào cũng đồng điệu với nhịp đập của trái tim của đồng bào và của
quê hương, nên Ông đã dứt khoát từ chối không nhập Pháp tịch qua bức thư đề
ngày 15 tháng 9 năm 1888 gởi cho một người bạn Pháp là Pène Siefert.
Tờ
trình trên dĩ nhiên do ông viết bằng chữ Pháp, còn toàn thể truyện du ký này đã
được con út của ông là Nicolas Trương Vĩnh Tống dịch ra tiếng Pháp vào năm
1929: “Voyage au Tonkin en 1876”. Truyện này còn được dịch sang tiếng Anh “Voyage to Tonkin in the year Ất
Hợi 1876” bởi P.J. Honey, London, School of Oriental and African Studies, 1982.
3.3. Petrus Ký: Nhà thuyết khách tài
ba
Tháng 4, năm 1886, toàn quyền Paul
Bert cử ông ra làm việc bên cạnh triều đình Huế. Chỉ trong vòng 4 tháng làm
việc ở đây, từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1886, với tài ngoại giao khéo léo, Ông
đã thuyết phục được vua Đồng Khánh và triều đình Huế chấp nhận sự hợp tác và
bảo hộ của Pháp.
Trong thư gửi cho toàn quyền Paul
Bert, Ông đã viết có đoạn như sau:
Huế, ngày 17 tháng 6 năm 1886
Tôi sẽ bỏ lại bọn nịnh thần, tôi đã lựa chọn những người có thực tài
kinh tế (viết tắt chữ kinh bang tế thế có nghĩa là sửa nước, giúp đời hoặc kinh
thế tế dân có nghĩa là trị đời, giúp dân) mà hầu giúp cho Hoàng Thượng và sung
vào Cơ Mật Viện.
Những người có tài không thiếu gì, cứ chọn trong số các nhà Nho học theo
đạo Khổng, là chỗ tôi thường trông cậy để lo dìu dắt xã hội.
Những đạo giáo, cuộc sống xã hội, muốn sanh tồn được ấy là nhờ cái
nguyên tắc luân lý mà thôi, mà dầu tôn giáo nào đi nữa cũng gồm chung những
nguyên tắc ấy, chớ không có chi lạ. Trong đạo trị nước, nếu biết nghĩ như thế,
thời tức nhiên phận sự hoàn toàn chẳng có chi khó, nếu các tôn giáo không làm
chi náo động dân chúng, thời nhà nước cứ giữ địa vị trung lập mà điều đình. Tôi
nói đây là có ý muốn cho ông biết rằng, hễ luận đến quyền lợi quốc gia thời tôi
không thể kể đến cái đức tin riêng của tôi. Trong bộ sử ký tôi viết, thời tôi
cũng đã tỏ cái ấy rồi.
Ký tên
P.Trương Vĩnh Ký
Một lần nữa, chúng ta thấy Trương
tiên sinh lập lại cái điệp khúc về triết lý chính trị , về tôn giáo của Ông.
3.4. Petrus Ký: Nhà hành chánh có
bản lãnh và đầy tự tin
Năm 1863, Ông tháp tùng với chánh sứ
Phan Thanh Giản đi công du tại Pháp. Khả năng ngoại giao của Ông đã được cả
triều thần của Napoléon III khen ngợi. Ngoài giờ công cán ông còn tiếp xúc với
nhiều văn nhân, triết gia, sử gia, khoa học gia có tầm vóc quốc tế như Victor
Hugo (1802 - 1885) là một nhà đại văn hào ở thế kỷ XIX có rất nhiều tác phẩm
với nhiều đề tài phong phú và có nhiều ảnh hưởng trong văn học Pháp và thế giới,
trong số các tác phẩm của ông có 2 quyển tiểu thuyết nổi tiếng nhất là Les Misérables (1862) và Notre Dame de Paris (1831). Les Misérables đã được dựng thành kịch, được nhiều
hãng phim cho quay lại và hiện nay có cả băng video nữa; đặc biệt nhà văn Hồ
Biểu Chánh (1885 - 1958), tức Đốc Phủ sứ Hồ Văn Trung, đã từng làm Chánh văn
phòng cho Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, Thủ Hiến Nam Kỳ thời Nhật vừa mới thua và
Tây trở lại hồi 1945 - 1946, đã mô phỏng chuyện này mà viết thành quyển tiểu
thuyết nổi danh ở miền Nam là truyện Ngọn Cỏ Gió Đùa. Ernest Renan (1823 -
1892) là sử gia, triết gia và một nhà văn sau này, ông đỗ Thạc sĩ Triết học năm
1848 và tiến sĩ Văn chương năm 1852, chính Renan đã đề bạt Trương Vĩnh Ký vào
danh sách dự tuyển văn hào thế giới vào năm 1874. Bác sĩ Paul Bert (1833 -
1886) đỗ Bác sĩ y khoa và Tiến sĩ khoa học, đã là Bộ Trưởng Giáo Dục dưới thời
Thủ Tướng Gambetta từ tháng 01 năm 1881 đến tháng 01 năm 1882, là toàn quyền xứ
An nam và Bắc kỳ năm 1886, và v.v. để trao đổi kiến thức với họ. Những học hỏi
của Trương tiên sinh về đạo lý Khổng Mạnh, tinh hoa của văn hóa Đông Phương,
với các thầy đồ trong thời thơ ấu; những học hỏi của Ông ở các trường của thầy
dòng về Triết lý La - Hy, cái hiểu biết tận gốc rễ của văn hóa Tây Phương;
ngoài những học hỏi ở nhà trường, những hiểu biết kinh viện đó, Ông còn đọc
biết bao sách vở nghiên cứu về các nền văn hóa Đông và Tây phương; do đó, Ông
có được một kiến thức uyên bác về văn hóa Đông và Tây phương. Ông luôn luôn so
sánh để tìm ưu điểm của khoa học kỹ thuật Tây phương để tổng hợp lại mà xây dựng
cuộc cải cách giáo dục cho đất nước ta. Qua các bài viết của Ông, ta thấy khi
đến Paris, Ông không bao giờ bị chóa mắt trước cảnh dây thép nói và dây điện
chạy giăng ngang trên không trung, hoặc cảnh khói tàu bay cao nghi ngút ở bến
cảng như một số nhà văn nông nổi cùng thời với Ông đã khiếp vía trước cảnh văn
minh vật chất khi họ vừa bước chân tới Pháp. Ông rất tự tin, tự trọng và khiêm
tốn trong khi mạn đàm với ngoại nhân ở nơi đất khách. Cũng chính bác sĩ Paul
Bert đã đánh giá được năng lực của Ông, nên khi nhậm chức toàn quyền xứ Annam
và Bắc Kỳ, vào năm 1886, đã cử Ông làm việc bên cạnh triều đình Huế.
3.5. Petrus Ký: Nhà hành chánh thanh
liêm
Trương tiên sinh đã được toàn quyền
Paul Bert trọng dụng, đã được vua Đồng Khánh quý mến. Tuy thân cận với triều
đình Huế và quen biết nhiều ngoại nhân, nhưng không bao giờ Ông lợi dụng chức
vụ để “ăn tiền” của cải hối lộ. Sự trong sạch và lòng thanh liêm ấy đã tạo nên
cuộc sống của Ông rất thanh đạm, nhứt là những ngày về hưu Ông lại càng sống
trong cảnh túng thiếu. Nhưng Ông luôn luôn vui vẻ, luôn luôn “an bần lạc đạo”, và lấy việc đọc sách,
viết văn làm niềm vui. Thử so sánh với đời sống cá nhân của một vị quan đồng
thời với Ông là Kinh lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải, chỉ giữ nhiệm vụ có bảy năm
(1890 - 1897) mà đã tạo nên dinh thự nguy nga lộng lẫy. Tuy nhiên, Trương tiên
sinh được một phần thưởng tinh thần xứng đáng là trong lúc Ông còn sinh tiền thì
các học trò của Ông đều kính trọng và dân chúng từ Bắc vô Nam ai ai cũng kính mến Ông. Kể từ
khi Ông qua đời tính đến nay đã trên một trăm năm rồi mà khi nhắc đến Ông, ai
ai cũng thương tiếc kính phục một con người trong sạch liêm khiết. Tờ tuần báo “Lục Tỉnh Tân Văn” số 29, ra ngày 4 tháng
6 năm 1908 đã vận động cho việc dựng tượng Petrus Trương Vinh Ký, và tôn vinh Ông
là vị thầy của cả nước ta:
“Ông Đốc Ký!
Ông
này khi sanh tiền hay là nhà nước tin cậy mặc dầu chớ chẳng ỷ thế mà hại quê
hương, chỉ vẽ cho các quan Lang sa (Pháp) biết phong tục lễ nghĩa của con nhà
An Nam cho khỏi chỗ mích lòng nhau, làm cho mẹ gà phải thương con vịt. Đêm ngày
lo đặt sách này, dịch sách kia cho kẻ hậu sanh dễ học. Thiệt là quan thầy của
cả nước và của Nam Kỳ. Nay ông Phủ Minh Tân (ý chỉ Đốc Phủ sứ Gilbert Trần
Chánh Chiếu) nghĩ thương kẻ hiền ngõ cậy các quan hiệp nhau lập hội quyên tiền
đặng dựng hình ổng mà dương hậu thế, thì chúng ta thảy phải vui mừng nên cúng
kẻ ít người nhiều đặng giúp cho nên việc thì cũng đặng vinh hiển chung nhau...”
Tuần báo Đồng Nam, số ra ngày 02 tháng 9 năm 1943
tại Sài Gòn, nhân ngày giỗ thứ 45 năm của Trương Vĩnh Ký đã viết rằng:
“Làm sao nói
hết thân thế và sự nghiệp trước tác của Trương Vĩnh Ký cùng ảnh hưởng của Cụ và
sự nghiệp Cụ đối với người và văn hóa Việt Nam.
(…)
Vả lại cụ Trương Vĩnh Ký là một nhân vật lịch sử mà các lớp người sau không có
quyền lãng quên được.”
Nhà văn Lê Thanh đã vượt ngàn dậm từ Hà Nội vô Sài
Gòn và đến tận nhà ông Trương Vĩnh Ký để trang trọng đọc từng tờ di cảo, từng
trang nhật ký của Trương tiên sinh để viết quyển “Trương Vĩnh Ký” do Tân Dân xuất bản năm 1943 ở Hà Nội. Để biết một
phần nào lòng tôn kính của một nhà văn ở đất Bắc Kỳ đối với nhà bác học ở đất
Nam Kỳ, chúng ta hãy đọc cảm tưởng của Lê Thanh khi bắt đầu viết quyển sách này
như sau:
“Trên con
đường Sài Gòn - Chợ Lớn bên tay phải, một miếng đất vuông vắn, xinh xẻo, có cái
bề ngoài của một biệt thự. Du khách đi qua đọc mấy dòng chữ La Tinh đắp trên tường
ngôi nhà bát giác xây ở giữa, cảm thấy một rung động kín đáo, dừng bước cầu
nguyện cho một linh hồn; đây là chỗ an nghĩ của nhà học giả Việt Nam - Trương Vĩnh
Ký.
Cửa
lúc nào cũng mở rộng cho du khách bước vào. Nhà bát giác là một phần, trong
cùng vườn, một ngôi nhà còn mới dựng theo một kiến trúc rất cổ, tàng trữ tất cả
những cái có quan hệ lịch sử với Trương tiên sinh.
Tôi
đến đây hàng tháng, trong những chồng sách đã cũ, đống giấy đã nát, tìm kiếm
tài liệu để viết tập tiểu sử Tiên sinh.
Hôm
nay cầm bút bắt đầu tập tiểu sử này, tôi bâng khuâng, ngần ngại muốn đặt bút
xuống chờ một lúc khác có cảm hứng hơn. Bây giờ chắc tôi không làm được việc gì
vừa ý, những ý tưởng hiện tôi có, nếu tôi đặt lên giấy, sẽ không tỏ được một
phần những điều tôi muốn viết.
Cái
hình ảnh của Trương tiên sinh tôi sẽ phác ra đây có phải đâu hình ảnh linh động
mà tôi đã dò được theo từng nét trong những chồng sách, tập giấy kia.
Phải
mời các ngài đi với tôi đến tận nơi cùng tôi đi sâu vào những tập thư, quyển
nhật ký ... gần mục nát, phải được đặt trước các ngài một chồng giấy mỏi mệt hơn
nửa phần bị gián nhấm, mọt đục chỉ còn lu mờ ít dòng chữ và mùi mực nhạt. Các
ngài mới có thể tìm thấy những nét tinh tế của cái tâm hồn mà từ trước đến nay
hễ nói đến là người ta cho là khó hiểu.
Còn
gì có thể gửi cho người ta biết một tâm hồn hơn là những bức thư gửi người
thân, những trang nhật ký ở trong ấy tất cả việc lớn, nhỏ, những mẫu tư tưởng,
những niềm tâm sự...
Hơn
một lần, nghiêng mình trên trang di cảo vàng úa, tôi cảm thấy tâm hồn tôi săn
lại, khi thấy bằng những dòng chữ rời rạc, Tiên sinh ghi những nỗi lo phiền,
buồn tủi... Tôi đã cảm thấy lạnh trong tâm hồn khi đọc mấy chữ ấy, tôi nhận
thấy sự đau đớn nhiều hơn sức mạnh, tôi được biết rằng vì quá tận tuỵ cho nhà,
cho nước, cho văn chương, cho tư tưởng mà Tiên sinh đã phải trả giá đắt bằng cả
sức khoẻ và sau cùng cả cái đời của Tiên sinh.
Nhưng
có phải ai cũng có cái may mắn được đến đây để tìm cái tôi đã tìm và để có
những cảm giác tôi đã có đâu. Nghĩ vậy tôi đành làm công việc theo sức lực của
tôi. Mong các ngài sẽ rộng lượng đối với sự hèn yếu của ngòi bút tôi, thêm vào
đây cả sự gay go của thời đại này nữa.”
Lê Thanh cũng đã ghi trong sách của ông đôi lời
cảm tạ như sau: “Tôi thành thực cảm ơn
ông Trương Vĩnh Tống, thứ nam Trương tiên sinh, đã hết sức giúp đỡ tôi trong
khi chúng tôi tìm tài liệu tại nhà kỷ niệm “Trương Vĩnh Ký” tại chợ Quán, đã mở cửa thư viện gia đình ở
đường Frères Louis (nay là đường Nguyễn Trải), Sài Gòn, cho tôi xem nhiều giấy
má can hệ về Trương tiên sinh, đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện thuộc cái đời riêng
của Tiên sinh. Ông đã dặn tôi nên dè dặt khi lựa chọn tài liệu. Tôi đã thận
trọng chỗ ấy. Tuy vậy nếu có đoạn nào làm cho ông không vừa ý, chúng tôi xin
lỗi trước và thưa rằng cái gì thuộc về Trương tiên sinh đã thuộc về lịch sử cả
rồi. Mà cái gì thuộc về lịch sử đều đáng quý cả”
Quyển sách này do Ứng Hoè Nguyễn văn Tố đề tựa, Nguyễn
Văn Tố là một học giả có nhiều uy tín và nổi danh ở tiền bán thế kỷ XX.
Cũng chính Nguyễn Văn Tố trong bài “Petrus Ký (1837 - 1898)” đăng trong Bulletin de la Société Mutuelle du
Tonkin, tom 27 no. l - 2 Janvier - Juin 1937, tr. 27 - 67, đã nhận
định sâu sắc và xác đáng về nhân cách đáng quý mến của Trương tiên sinh bằng ba
chữ: “Science, Conscience ét Modestie” (Khoa Học, Tâm Thuật và Khiêm tốn).
Ưng Bình Thúc Dạ Thị, nhà lão thành có kiến thức
uyên bác ở xứ Huế, trong tập thơ “Tiếng
Hát Sông Hương” do Tôn Nữ Hỷ Chương
xuất bản năm 1972, nơi tr. 46, có bài thơ “Văn
hào Trương Vĩnh Ký” đã diễn tả
một lòng kính trọng tiền nhân như sau:
“Đạo
đức văn chương là ông Trương Vĩnh Ký,
Có
tân thơ, có báo chí, có tự vị rõ ràng,
Thanh
danh rạng giữa dinh hoàn,
Học
xưa biết trước chỉ đàng cho hậu sanh.”
Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm, nguyên Thứ
trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên Sài Gòn, là Trưởng ban tổ chức ngày
giỗ 100 năm của nhà bác học Petrus Ký tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ vào
ngày 30 tháng 8 năm 1998 đã viết bài “Trường Petrus Ký và nhà bác học Trương
Vành Ký” trong đặc san kỷ niệm buổi giỗ này, nơi tr.121 và 122, có một nhận xét
rất chí lý về Trương tiên sinh như sau:
“Nói đến
Petrus Trương Vĩnh Ký là phải nói đến vai trò “khai đường mở lối” của Ông trên
các địa hạt sau đây:
(l)
Dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ nôm và chữ Hán trong việc biên khảo, trước tác.
(...)
(2)
Viết câu văn xuôi thay lối văn biền ngẫu của các nhà Nho. Trong văn chương chữ
Hán và chữ Nôm, không có văn xuôi, tất cả là văn có vần có đối như thi, phú,
hát nói ... Petrus Ký là người đầu tiên viết văn xuôi trong lãnh vực sáng tác.
(3)
Xây dựng nền học thuật mới tổng hợp văn hoá Á Đông và văn minh Tây Phương để
thay thế nền học thuật cũ của Nho gia. Ông là người đầu tiên đề xướng việc học
hỏi khoa học kỹ thuật của văn minh Âu Tây đồng thời bảo tồn và phát huy tinh
thần đạo đức của Á Đông. Đó là con đường mà sau này nhóm Nam Phong tạp chí của
thế hệ 1917 sẽ tiếp nối. Đó cũng là tinh thần dân tộc, khai phóng và nhân bản
mà nền giáo dục phổ thông của Việt Nam Cộng Hòa dùng làm nguyên tắc căn bản
(...).
(4)
Petrus Ký là người đầu tiên làm báo theo đúng nghĩa của một tờ báo. Thật ra thì
tờ Gia định báo chỉ như một tờ tin tức công quyền, chuyên đăng những nghị định,
những thông cáo của chính quyền mà thôi. Khi Petrus Ký trông coi thì tờ báo mới
có thêm tin tức và những bài vở có giá trị khảo cứu sáng tác.”
Gần đây, ngày 26 tháng 12 năm 1995, Christine
Nguyễn đã trình một tiểu luận với đề tài “Petrus
J. B. Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) and The Dissemination of Quốc ngữ. An Annotated Bibliography of by and about a Vietnamese Scholar” (Petrus Jean Baptiste (1837 -
1898) và sự truyền bá chữ Quốc ngữ: Thư tịch có chú giải về các tác phẩm do
Trương tiên sinh viết và các tác phẩm viết về nhà bác học Việt Nam này) khi tốt
nghiệp Master of Library Science tại Queens
College City University Of New York, Hoa Kỳ.
Các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký có
một số lượng đồ sộ cùng với một nội dung vô cùng phong phú, thuộc nhiều đề tài khác
nhau như sử ký, ngữ học Việt Nam, dịch thuật, chú thích Tứ Thư (Đại học, Trung
dung, Luận ngữ, Mạnh tử), văn học dân gian, các bản văn chữ Nôm, chữ Nho, sách
giáo khoa ...; và nhất là có giá trị lịch sử, sẽ là đối tượng của nhiều luận án
sau này nữa.
Ngày nay cuộc đời và sự nghiệp văn
hóa của Trương Vĩnh Ký đã có tầm vóc quốc tế. Chúng ta có thể thấy Petrus Ký ở trong
nhiều bộ bách khoa tự điển, tự điển tiểu sử danh nhân bằng 3 thứ tiếng Việt,
Anh và Pháp.
Ngoài bài viết rất có giá trị của Nguyễn
Văn Tố bằng tiếng Pháp hồi năm 1937 tại Hà Nội đã dẫn ở trên, còn có một quyển
khác cũng rất có giá trị do một người Pháp viết:
-
Jean
Bouchot, Petrus J. B. Trương Vĩnh Ký: Un
Savant et un Patriot Cochinchinois, 3ème éd. Revue et conigée, Sai Gon: Nguyễn
Văn Của, 1927, l06p.
Có nhiều sách viết về Tiên sinh bằng tiếng Anh,
trong đó có 3 quyển đáng lưu ý là:
-
De
Francis, John, Colonialism and Language Policy
in Việt Nam: Contributions to the Sociology of Language, NewYork; Mouton
Publishers, 1977, 293 trang.
-
Milton,
E, Osborne, The French Oresebce in
Cochinchina and Cambodia :
Rule and Response (1859 - 1905). Ithaca :
Cornell University Press, 1969, 379 trang.
-
Thomsom,
J., The Straits of Malacca, Indochina : or, Ten Year's Travels, Adventures and
Residence Abroad, NewYork: Harper & Brothers, 1875), tr.177, 178. Đây
là cuốn du ký vùng Đông Nam Á, trong đó Thomsom có kể lại việc đã gặp Petrus
Ký, ghi lại tiểu sử của Trương tiên sinh và khen Petrus Ký nói tiếng Anh rất
giỏi: “Perfect English, with just a slight
accent, while in French he could converse with the same purity and ease.”
Tr. 177
Phong cách đáng tôn trọng của Trương
tiên sinh và sự nghiệp văn hóa lẫy lừng của Ông đã là đề tài cho nhiều bài
thuyết trình, bài viết cũng như nhiều quyển sách có giá trị, có nhận định sâu sắc,
khách quan vô tư, và có tinh thần dân tộc, khai phóng, nhân bản, chẳng hạn như:
-
Đặng
thúc Liêng, Trương Vĩnh Ký Hành Trang,
Sài Gòn: nhà in Xưa Nay, 1927.
-
Huyền
Mặc Đạo Nhân, Danh Nhân Nam Kỳ: cụ Trương Vĩnh Ký, Sài
Gòn: Báo Nguyệt San Đồng Nai, số 23 - 24, l5 Janvier - l Février 1933, tr. 21 -
26.
-
Huỳnh
Văn Tòng, Tờ Báo đầu tiên ở Việt Nam, Gia
Định Báo, Lịch sử báo chí ViệtNam, Sai Gòn: Trí Đăng , 1973, tr.51 - 56.
-
Khổng
Xuân Thu, Trương Vĩnh Ký, Sai Gòn;
Tân Việt, 1958.
-
Lê
Thanh, Trương Vĩnh Ký, Biên Khảo, Hà
Nội: Tân Dân, 1943.
-
Lưu
Khôn, Một Quan Niệm Chép Sử của Sĩ Tải
Petrus Trương Vĩnh Ký, California: Đặc San Petrus Ký,1998, tr.30 - 31.
-
Nguyễn
Thanh Liêm, Trường Petrus Ký và Nhà bác
học Petrus Ký , California : Đặc san Petrus Ký 1998, tr. 119 - 123.
-
Nguyễn
Văn Trấn, Trương Vĩnh Ký, Con Người và Sự
Thật, Sài Gòn: Ban Khoa Học Xã Hội, tháng 5 năm 1993.
-
Nguyễn
Văn Trung, Trương Vĩnh Ký, Nhà Văn Hóa.
Sài Gòn: Hội Nhà Văn, tháng l l năm 1993.
-
Phạm
Thế Ngũ, Trương Vĩnh Ký trong quyển Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Tập III, Sài Gòn: Quốc Học Tùng
Thư tr. 51 - 56.
-
Vũ
Ký, Trương Vĩnh Ký: Nhà thông thái và nhà
giáo dục, trích bài diễn văn của chính giáo sư Vũ Ký đại diện Bộ Giáo Dục Việt
Nam Cộng Hòa đọc trong buổi lễ Tưởng niệm Trương Vĩnh Ký ngày 02 tháng 8 năm
1973 tại Sài Gòn, đăng lại trong đặc san Petrus Ký 1998, tr.23 - 29.
-
Vương
Hồng Sển, Cánh Buồm Bể Hoạn trong quyển
Hơn Nửa Đời Hư, Califomia: Văn nghệ,
1994, tr.237 - 238.
3.6. Quan niệm về xuất xử của Petrus
Ký
Trương tiên sinh đã từng gặp những
thăng trầm trên bước hoạn lộ. Ngày 11 tháng 11 năm 1886, toàn quyền Paul Bert
từ trần tại Hà Nội vì bị bịnh. Trong lúc đó tiên sinh đang nghỉ phép ở Sài Gòn,
hay tin này Ông liền cáo bịnh để xin từ chức và không còn trở ra Huế làm việc
nữa. Quyền Thống sứ Paulin Vial, nguyên là một phụ tá của Paul Bert, đã tìm
cách triệt hạ các người của Paul Bert ấy. Tháng 12 năm 1886, Paulin Vial ra
lệnh sụt lương của Petrus Ký và còn dự định bãi chức ông nữa, có thể một phần
để dứt vây cánh của Paul Bert nhưng cũng có thể vì Ông đã biết quá nhiều trong
lúc làm nhiệm vụ trung gian giữa chánh phủ bảo hộ Pháp và triều đình Huế, cũng
có thể vì Ông vẫn luôn luôn thương đồng bào và yêu nước Việt Nam. Nhưng may mắn
thay, nhờ Petrus Ký có nhiều bạn thân ở Pháp can thiệp nên họ đưa Ông trở lại
làm việc tại Súy phủ Sài Gòn và cho đi dạy học trở lại. Lúc ấy Ông được 50 tuổi
ta, và đã hiểu biết thế nào là thiên mệnh. Trước Ông, Nguyễn Công Trứ cũng đã
từng trải qua cảnh vinh nhục trên bước hoạn lộ:
“Tuổi tác tuy rằng chửa mấy mươi,
Đổi thay ắt đã thấy ba đời,
Ra trường danh lợi vinh liền nhục,
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.
Chuyện
cũ trải qua đà chán ngắt,
Việc
sau nghĩ lại chẳng thừa hơi.
Đã
hay đường cái thường ra thế,
Sạch
nợ tang bồng mới kể người”.
(Nguyễn
Công Trứ, Làm quan bị
cách)
Chú thích: Ba
đời là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị.
Trên chính trường, vinh nhục như trở
lòng bàn tay. Hôm nay chiến thắng thì làm vua hưởng vinh quang, ngày mai thua
thì làm giặc chịu nhiều cảnh nhục nhã. Chán ngán quan trường, nhiều vị quan
muốn vứt bỏ mọi chức tước, công hầu, khanh tướng nào có còn ý nghĩa gì nữa; lợi
danh, thị phi cũng bỏ ngoài tai để lui về ở ẩn, để vui thú điền viên và hưởng
cảnh an nhàn.
Quan niệm về xuất xử của ông thì
cũng như của các nhà Nho ngày xưa: “tiến
vi quan, thoái vi sư”. Xuất là ra làm quan, xử là về ở ẩn. Nhưng
lúc nào tiến, lúc nào phải dừng lại, lúc nào thoái, đó là một triết lý hành
động tùy thuộc vào quan niệm về cuộc đời của từng người. Theo Petrus Ký, Trương
Lương là tấm gương minh triết soi sáng cho Ông về con đường xuất xử. Ông đã tỏ
bày tâm sự này qua bài “Trưng Lương hầu phú”
được Ông sáng tác vào năm 1882, và trong một bức thư gởi cho các bạn thân để
trả lời câu hỏi: “Tại sao tôi đắc thời mà
không chịu ở lại làm quan tại triều đình Huế”, có đoạn như sau:
“(…) Ông đã
có viết thư mà hỏi tôi sao từ giã đường công danh đi mà không chịu làm quan nữa
...? Giữa đám tiệc tôi không dám nói cho hết tiếng mà đáp lại cho hết ý. Nên
nay có thiếp của các ông gởi mừng ngày lễ bổn mạng tôi xin tạm ít chữ trần
trình cho các ông hay, kẻo các ông có lòng thương mà tiếc cho tôi.
Ở
đời xử đám công danh là khó lắm, đưa đường danh lợi là hiểm nghèo lắm; một là
nên hai là hư, mà hư thì thường thường nhiều hơn, hễ mê hễ đắm ham hố quá thì
làm sao bắt chước Trương Lương dụng khí minh triết bảo thân (khôn ngoan để giữ mạng sống), là lo xét coi vọi nhắm chừng cho biết
đường tấn thối mà rứt mình ra khỏi bẫy được”.
Trương Lương là ai mà Trương Vĩnh Ký đã tôn sùng
và quý mến như vậy? Chúng ta hãy trở về lịch sử xa xưa của Trung Quốc để tìm
hiểu về Trương Lương.
Nhà Tần (221 - 206 tr.TL) bạo ngược. Tần Thủy
Hoàng đã đốt sách chôn học trò. Các vua nối nghiệp vẫn tiếp tục chính sách bạo
tàn ấy, cho nên có nhiều cuộc loạn nổi lên. Trần Thắng khởi binh ở đất Kỳ, Hạng
Lương và cháu là Hạng Tịch ở đất Ngô, Lưu Bang ở đất Bái. Trần Thắng và Hạng Lương
lần lượt bị tử trận. Cuối cùng thì Hạng Tịch và Lưu Bang tiến vào được đất Tần,
cướp phá kinh đô Hàm Dương, giết vua cuối cùng của nhà Tần là Vương Tử Anh,
quật mồ Tần Thủy Hoàng và đốt sạch các cung thất nhà Tần. Hạng Tịch, tức Hạng
Võ, lập Sở Hoài Vương làm Nghĩa Đế, nhưng chẳng bao lâu lại giết đi để tự xưng
là Tây Sở Bá Vương. Hạng Võ phong Lưu Bang làm Hán Vương ở đất Ba Thục và Quang
Trung.
Hán vương Lưu Bang may mắn có 3 bậc tuấn kiệt giúp
sức là: Tiêu Hà coi việc phụ chính, Trương Lương làm quân sư, Hàn Tín làm đại
tướng, nên quyết tranh giành thiên hạ với Tây Sở Bá Vương Hạng Võ. Hán - Sở
tranh hùng được gần 6 năm thì Hàn Tín đánh bại Hạng Võ. Hạng Võ thua trận và
chạy tới sông Ô Giang thì tự vận. Trong 6 năm tranh hùng ấy, quân sư Trương Lương
đêm ngày ở bên cạnh Lưu Bang để bàn mưu, hiến kế. Hán vương Lưu Bang lên ngôi
Hoàng đế năm 202 trước Tây lịch, tức là vua Cao Tổ liền phong điền và bổng lộc
cho hơn một trăm khai quốc công thần trong đó có Hàn Tín làm Sở Vương, Tiêu Hà,
Bành Việt, Anh Bố đều được phong vương.. . Riêng Trương Lương thì ông đã khéo
léo tìm cách từ chối mọi chức tước, công hầu khanh tướng, và xin về Lưu Huyện,
thuộc đất Bái là nơi mà ông đã theo Lưu Bang phất cờ khởi nghĩa chống nhà Tần. Trương
Lương trở về vui thú điền viên, sống đời của kẻ ẩn sĩ.
Lưu Bang là một nông dân vô học, vô tài, thiếu
đức, nhưng lại có nhiều thủ thuật cao cường và thâm độc. Lúc vừa mới lên ngôi,
Lưu Bang đã say mê cơn chiến thắng và tự đắc tưởng rằng đã đến lúc không cần
tới các kẻ có tài đã từng theo giúp ông nữa. Một hôm ông mắng Lục Giả rằng: “Ta
ngồi trên mình ngựa mà được thiên hạ, đâu cần học Thi, Thư”, có hôm Lưu Bang
gặp một nho sinh ở ngoài đường rồi lấy nón của người học trò liệng xuống đất và
đái lên nón ấy. Hán Cao Tổ lại có lòng nghi kỵ, luôn luôn sợ người lật đổ. Nên
chẳng bao lâu, Lưu Bang giết hoặc hãm hại sạch cả khai quốc công thần mà vua có
ý nghi ngờ, họ là những người đã từng vào sanh ra tử để giúp cho Lưu Bang xây
dựng đế nghiệp nhà Hán. Hàn Tín và Bành Việt bị giết cả ba họ, Anh Bố thấy vậy
bỏ trốn nhưng rồi cũng bị giết. Tiêu Hà thì bị bắt cầm tù . . . Riêng Trương
Lương đã về ẩn dật nơi thảo dã, xa cách kinh thành nên đã bảo toàn được tính
mạng. Đó là thái độ “minh triết bảo thân”
của ông. Người đời sau tôn sùng và quý mến Trương Lương nên đã lập miếu thờ
ông. Trương Lương là bậc minh triết đáng tôn kính. Quả thật là:
“Tri mệnh,
thức thời duy tuấn kiệt” (Nguyễn Công Trứ - Cầm, kỳ, tửu)
Việc làm của Lưu Bang đã khiến hiền tài ẩn náu,
không ai dám ra làm quan. Nội triều không có kỷ cương, rối loạn; dân chúng thì
đói khổ; giặc Hung Nô thì quấy nhiễu ở biên thùy: Thế rồi Lưu Bang mới nhận ra
ngồi trên lưng ngựa có thể chiếm thiên hạ, vó ngựa, binh đao chỉ làm khiếp lòng
người mà thôi; chứ ngồi trên lưng ngựa thì không thể nào mà trị được thiên hạ. Muốn
trị thiên hạ thì phải cần đến kẻ sĩ, đến những người có học thức, với tài kinh
tế. Nên cuối cùng Hán Cao Tổ đã dùng Lục Giả, Thúc Thôn Thông, Lịch Tư Cơ
nghiên cứu phép tắc của thời trước mà đặt ra triều nghi, từ đó triều đình mới
có trật tự; và sửa đổi việc trị dân,nên dân chúng mới có đời sống khá hơn. Hán
Cao Tổ làm vua được 8 năm thì băng hà.
Nếu dân chúng Trung Quốc đã tôn kính Khổng Minh
Gia Cát Lượng và Quan Công, hai nhân vật lỗi lạc theo phò tá cho hậu duệ nhà
Hán là Lưu Bị dưới thời Tam Quốc, và đã lập miếu thờ các vị này ở khắp nơi;
thời dân Việt Nam cũng nên tôn kính nhà minh triết Trương Vĩnh Ký như vậy.
4. Kết Luận
Nhà bác học Trương Vĩnh Ký đã có công lao to tát
trong việc phát triển chữ Quốc ngữ, Ông là vị Tổ của ngành báo chí viết bằng
chữ Quốc ngữ. Riêng trong lĩnh vực hành chánh, Trương tiên sinh là một nhà hành
chánh lỗi lạc, luôn luôn chu toàn phận sự của mình, trong công vụ lúc nào Ông
cũng chí công vô tư, và nhất là Ông có lòng thanh liêm, một đức tính cao quý
của nhà hành chánh. Tiên sinh là một người trí thức cao thượng có đầy tâm huyết
đối với sự an nguy của đất nước và dân tộc. Trương tiên sinh rất đáng được tôn
sùng và kính mến.
Trong bài “Trương
Vĩnh Ký: Người thầy giáo xuất chúng của đất Nam Kỳ” đăng trong Đặc san
Petrus Ký, số kỷ niệm ngày giỗ trăm năm nhà bác học Petrus Ký, do Liên Hội ái
Hữu Petrus Ký Bắc và Nam Cali ở Hoa Kỳ thực hiện, tháng 8 năm 1998, tr.41, tôi
đã viết:
“Petrus Ký
và sự nghiệp của tiên sinh sẽ sống mãi với thời gian. Trương tiên sinh là nhà
bác học, nhà yêu nước, nhà hiền triết, nhà văn, nhà giáo xuất chúng của Việt
Nam. Chúng ta không những phải học hỏi những kiến thức quý báu của tiên sinh mà
còn phải học hỏi cái tấm gương đạo đức sáng ngời của tiên sinh nữa. Trương tiên
sinh quả là bậc siêu nhân, một vĩ nhân của nước việt Nam. Tiên sinh đã làm tròn
sứ mạng lịch sử của mình giữa lúc đất nước đã rẽ qua một khúc quanh mới: triều
đình Huế và các sĩ phu đã không giữ được đất nước, giang san đã bị Pháp thôn
tính, mà nhiều người trí thức vào thời điểm ấy phải có một sự lựa chọn để cứu
vãn cho đất nước.
Như
đã trình bày ở trên, tiên sinh chỉ có con đường là ra hợp tác với Pháp và nhờ đó
mà có thể vận động cuộc cách mạng về giáo dục để nâng cao dân trí và canh tân
đất nước.
Điều
mà tiên sinh thành công là cuộc cải cách về học vấn, các thế hệ thanh niên sau
này đã nghe lời dạy của tiên sinh mà quyết tâm đi học cái Tây học để học hỏi
cái học thuật, tư tưởng, kỹ thuật, kinh tế, chính trị ... của Tây Phương, và
cuối cùng sử dụng cái sở học này mà tranh đấu giành lại độc lập, tự do cho đất
nước.
Petrus
Ký là vị thầy kính yêu muôn đời của Việt Nam, kiến thức của Trương tiên sinh có
chiều cao ngất trời. Tiên sinh đã vận dụng cái vốn kiến thức quý báu đó vào
ngòi bút để chuyển lửa, để truyền đạt ngọn lửa cải cách giáo dục vào tim, vào
óc của kẻ hậu sinh với ước mơ thế hệ mai sau sẽ thực hành lời dạy của mình; bao
nhiêu mong ước ấy có ngờ đâu đã trở thành hiện thực. Những người như tiên sinh
thì sống mãi mãi trong tâm thức của chúng ta. (For men such as he
who lives in our hearts and our minds forever)”.