marque

*** Chào mừng bạn đang ghé thăm trang web An Phong An Bình***

Thứ Tư, 1 tháng 1, 2014

Tình Mẹ trong thi ca Nhất Hạnh

Nguyễn Vĩnh Thượng




Lời tác giả:
            Bài  “Tình Mẹ Trong Thi Ca Nhất Hạnh” đã đăng trên nguyệt san “Làng Văn” ở Toronto, Canada trong số đặc biệt kỷ niệm ngày lễ Vu Lan 1985. Nay tôi đổi tựa là "Tình Mẹ trong Bông Hồng Cài Áo của Nhất Hạnh" cho thích hợp với nội dung của bài viết.
***
          Như vì sao sáng xuất hiện trên vòm trời văn học Việt Nam và Âu Mỹ từ cuối thập niên 1940, Nhất Hạnh – một thiền sư, một nhà văn, nhà thơ – đã đi vào lòng người đọc bằng những tác phẩm: Bông Hồng Cài Áo, Nói Với Tuổi Hai Mươi,, Tình Người,  Nẻo Về Của Ý,  Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức (có nhiều bản dịch ra nhiều ngoại ngữ như Anh, Pháp, Đức, Hòa Lan, Thái Lan…Đặc biệt bản tiếng Anh “The Miracle of Mindfulness” được phổ biến nhiều hơn cả).
Tình mẹ là tình cảm thiêng liêng và bao la, tình thương dịu hiền của mẹ lúc nào cũng dạt dào nơi tâm hồn của mọi người :
“Mẹ già như chuối ba hương
Như sôi nếp một như đường mía lau”

               Nhất Hạnh (Bông Hồng Cài Áo)

Thiền sư Nhất Hạnh đã xuất gia đầu Phật, đã thoát ly gia đình để đi tu học tại các Phật học viên từ lúc thầy hãy còn thơ ấu nhưng tình thương mẹ vẫn luôn luôn ghi mãi trong tâm hồn thiền sư.  Khi hãy còn ở tuổi hoa niên, Nhất Hạnh (1926-     ) đã thích nhất bài thơ Mất Mẹ:

“Mẹ đang còn sống nhưng mỗi khi đọc bài thơ  ấy thì sợ sệt, lo âu…Sợ sệt, lo âu cho một cái gì còn xa chưa đến nhưng chắc chắn phải đến
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời.
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận kẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để giòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi...
Hoàng hôn phủ lên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.
Một “bầu trời” thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã không bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi.”
Nhất Hạnh (Bông Hồng Cài Áo)

Rồi việc gì đến thì phải đến, mẹ của thầy đã qua đời năm 1959. Khi hay tin mẹ mình mất thiền sư đã viết:
“Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: tai nạn lớn nhất đã xảy ra cho tôi rồi. Lớn đến cách mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi”
Nhất Hạnh (Bông Hồng Cài Áo)

Mỗi khi nhớ mẹ, thiền sư vẫn nghĩ rằng: “Mẹ vẫn còn, ôi thương yêu ngàn năm” và những ngày tháng xa quê hương, nhà thơ thường vẫn luôn luôn hướng về quê mẹ mà thương mà nhớ mẹ:
Bảy năm
Trầm hương xa
Hình ảnh mẹ
Một sáng mùa thu lạnh nắng
Mẹ rũ áo ra về
Đau thương đầy vai trút nhẹ
Con không khóc
Cuộc đời xa lạ
Ra đi tủi hờn rưng rưng
Gió bay áo con
Vàng nắng,đồi cao, trời xanh
Nắm đất
Những người còn ở lại sau chót
Cũng ra về
........................
Nhưng mẹ vẫn còn
Ôi! Thương yêu ngàn năm
Cho con gục đầu nhớ nhung
Gọi về quê mẹ.
Nhất Hạnh (Mẹ)

Nói đến tình mẹ trong thi văn của Nhất Hạnh chúng ta không thể không nói đến một đoản văn bất hủ của thầy là quyển “Bông Hồng Cài Áo” . Đoản văn này đã làm cảm động nhiều người trẻ tuổi, đã làm biết bao độc giả rưng rưng lệ. Thật vậy, ai lại không nghẹn ngào khi nghĩ đến mẹ của mình, đến sự hy sinh của mẹ, đến tình thương của mẹ. Đoản văn này còn gây cho người trẻ tuổi sự ý thức được sự quý giá của bà mẹ bên cạnh mình, và tưởng nhớ đến người mẹ đã khuất bóng. Thiền sư Nhất Hạnh đã viết đoản văn này vào năm 1962 tại hải ngoại dưới hình thức một lá thư rồi gửi về cho các sinh viên, học sinh Phật tử ở quê nhà.  Lúc ấy, đoàn sinh viên học sinh Phật tử tại Sài Gòn đã phổ biến đoản văn  Bông Hồng Cài Áo bằng cách chép tay. Mỗi sinh viên, mỗi học sinh trong đoàn đã tình nguyện chép tay một số bản, tổng số lượng những bản chép tay này lên đến hàng trăm bản, rồi họ phân phát cho các bạn bè, thân hữu. Kẻ viết bài này cũng đã chép được vài bản. Mãi đến năm 1964, đoản văn Bông Hồng Cài Áo mới được nhà xuất bản Lá Bối ấn hành lần đầu tiên tại Sài Gòn. Tính đến nay (1985),đoản văn Bông Hồng Cài Áo đã được sáng tác trên hai mươi năm, con số ấn bản lên đến hàng triệu cuốn. Nguyên nhân là bởi đoản văn này được rất nhiều người ưa thích và nhất là tác giả không giữ bản quyền nên ai cũng có thể in lại. Cùng một ý tưởng diễn tả tình mẹ, và được lấy cảm hứng từ đoản văn này , một tuồng cải lương và một bản tân nhạc có cùng tựa đề Bông Hồng Cài Áo đã được sáng tác vào các năm 1966, 1967 tại Sài Gòn. Năm 1983 tại Hoa Kỳ, các nhà văn Thạch Mai và Helen Coutant đã dịch đoản văn này ra tiếng Anh dưới tựa đề A Flower For You được xuất bản bằng song ngữ Việt – Anh, hình bìa do họa sĩ Võ Đình trình bày có một cánh hoa hồng tuyệt đẹp.

Cũng cùng năm 1962, tại chùa Xá Lợi,  Sài Gòn, trụ sở của Hội Phật Học Nam Việt, vào ngày lễ Vu Lan (rằm tháng bảy âm lịch). Đoàn sinh viên học sinh Phật tử đã tổ chức lần đầu tiên lễ Bông Hồng Cài Áo. Tất cả những người tham dự buổi lễ đều được gắn hoa hồng trên áo. Người nào còn mẹ thì được cài hoa màu hồngkẻ nào mất mẹ thì được cài hoa màu trắng.  Nghi Thức tổ chức buổi lễ rất đơn giản nhưng thật trang nghiêm, nên đã tạo được một ý thức rất mạnh về tình mẹ con. Bởi vậy buổi lễ này đã làm rung động tận đáy lòng người tham dự, khiến không ai cầm nổi nước mắt. Kể từ năm 1962 trở đi, hàng năm cứ đến ngày Vu Lan là mọi Phật tử đều tổ chức lễ Bông Hồng Cài Áo. Lễ này được quan niệm như là một “Lễ Báo Hiếu” trong các cộng đồng Phật giáo khắp nơi trên đất Việt.  Ngày nay, các cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại các nước tự do trên khắp thế giới đều lấy ngày lễ Vu Lan làm ngày tổ chức lễ Bông Hồng Cài Áo. Tất cả mọi Phật tử đều coi đó như là một ngày lễ  truyền thống đáng quý của dân tộc ta để tưởng nhớ đến công ơn sinh thành của cha mẹ:

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Ca dao
Sau này, trong lễ Bông Hồng Cài Áo được tổ chức tại nhiều ngôi Chùa hay tại các Niệm Phật Đường, mỗi người tham dự  buổi lễ này đều được cài lên áo hai đóa hoa hồng. Hai bông hồng được kết lại thành một bó: đóa hoa  tượng trưng cho cha hơi cao hơn một chút để dễ phân biệt với đóa hoa kia tượng trưng cho mẹ. Cành hoa màu hồng tượng trưng cho cha hoặc mẹ vẫn còn, cành hoa màu trắng trượng trưng cho cha hoặc mẹ đã khuất bóng. Buổi lễ này nói lên tình cha – mẹ - con.

Tình mẹ trong thi văn thiền sư Nhất Hạnh đã gợi nên nỗi nhớ thương cha mẹ của chúng ta vô bờ bến; nhất là khi cha mẹ vẫn còn ở lại quê nhà trong khi chúng ta đang sống cuộc đời tha hương nơi xứ người:

Sân lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Nguyễn Du (Truyện Kiều)
Chúng tôi xin mượn hai câu thơ trên của Nguyễn Du để kết luận


TORONTOVU LAN 1985 

 Nguyễn vĩnh Thượng