Gs. Nguyễn Vĩnh Thượng
Trong bài “Phương Pháp Hoài Nghi của
Đức Phật” (Buddha’s Method of
Doubt), chúng tôi sẽ trình bày:
I.-Hành trình từ hoài nghi đến chân lý.
II.-Phương pháp hoài nghi của Đức Phật:
A.- Nguyên nhân Đức Phật giảng bài Kinh Kalama.
B.- Phương pháp hoài nghi của Đức Phật trong nội dung của bài Kinh Kalama.
II.-Phương pháp hoài nghi của Đức Phật:
A.- Nguyên nhân Đức Phật giảng bài Kinh Kalama.
B.- Phương pháp hoài nghi của Đức Phật trong nội dung của bài Kinh Kalama.
III.-Bài học từ “Phương pháp hoài
nghi của Đức Phật”.
I.-Hành trình từ hoài nghi đến chân lý:
Hoài nghi (Srt.=Pa. Vicikitsa,
Av. Doubt / Indecision) là nghi ngờ hay phân vân về một điều gì. Bản chất của
hoài nghi thì không tốt cũng không xấu. Điều chính yếu là chúng ta phải giải
quyết các điều đang bị hoài nghi. Có thể hoài nghi về khả năng của mình: -tôi có
thể làm điều này không? - hoặc có thể hoài nghi về phương pháp đang thực hành:
-phương pháp này có đúng cách không? -hoặc nghi vấn về ý nghĩa của một điều gì:
- điều này có nghĩa là gì?; -Thiền sư (Meditation Teacher) này có phải là một ông
Thầy tốt không?, dĩ nhiên thiền sư giỏi cũng như vị hướng dẫn đội thể thao, sẽ đưa
các học viên đến chỗ thành công.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni
(khoảng 654 tr. CN – 544 tr. CN) đã dạy rằng hoài nghi là một trong 5 chướng ngại
(five hindrances) phát khởi trong tâm trí, cản trở khả năng phán đoán của bạn,
hạn chế khả năng hành động của bạn, và gây ra sự cảm xúc bất an lớn. [The Buddha taught that doubt is one of five
hindrances that arise in the mind, clouding your judgement, limiting your
ability to act, and causing great emotional disquiet].
Năm chướng ngại đó là:
1.-Tham dục (Av. desire).
2.-Sân hận (Av. Anger/ Aversion)
3.-Lười biếng và chán chường (Av. Sloth and Torpor), gọi chung là hôn trầm.
4.-Bồn chồn và lo lắng (Av. Restlessness and Worry).
5.-Hoài nghi (Doubt).
2.-Sân hận (Av. Anger/ Aversion)
3.-Lười biếng và chán chường (Av. Sloth and Torpor), gọi chung là hôn trầm.
4.-Bồn chồn và lo lắng (Av. Restlessness and Worry).
5.-Hoài nghi (Doubt).
Niềm tin là sự giải độc hay trừ
khử hoài nghi (the antidote for doubt is faith).
(Xem thêm bài: Năm chướng ngại trong việc thực hành thiền
của NVT)
Hoài nghi được phát khởi từ các luật nhân quả (Causes and Conditions).
Hoài nghi có thể đến từ sự không chắc chắn (uncertainty), từ một trải nghiệm thất
bại, hay từ một niềm tin xa xưa về chính bản thân mình.
Hoài nghi là một phần không thể
tránh khỏi của kinh nghiệm sống. (Doubt is an unavoidable part of the life
experience).
Tuy nhiên, hoài nghi giúp chúng
ta thấy đều gì không chắc chắn (uncertainty). Có nhiều khi, hoài nghi đã đưa đến
sự thay đổi (change) về niềm tin tưởng (trust) của bạn hoặc duyệt xét lại niềm
tin (reconsider trust). Cũng có khi lương tâm (conscience) của chúng ta cảm thấy
một điều gì sai lầm bởi vì điều đó xâm phạm đến các giá trị đạo đức của chúng
ta: nó là sự sai lầm về đạo đức, hay nó có thể vi phạm những giá trị tâm linh. Điều
này đặc biệt là một sự thật khi có kẻ khác can thiệp vào; thí dụ như sự can thiệp
vào thương mãi, vào chính trị hay vào các sanh hoạt đoàn thể khác. (It involves
business, political, or other organizational activity). Khi mà các người này cố
gắng lèo lái, định hướng bạn vào sự sợ hãi (fear) hay những lời hứa không có thực
(unreal promises). Đây chính là lúc “hoài
nghi” giúp bạn nhìn lại vấn đề một lần
nữa. Việc hoài nghi này có thể đưa đến sự từ chối những điều mà mình đang hoài
nghi bởi vì chúng ta không muốn trả một cái giá đắc cho những điều gì mà chúng
ta tin là đúng nhưng sự thật là không đúng.
Nhờ có hoài nghi chúng ta mới
tra vấn, đặt câu hỏi, đặt thành vấn đề để phân tích, để điều tra, để tìm chân lý,
để tìm một sự thật.
Sự hoài nghi và sự tra vấn thúc
đẩy chúng ta tiếp tục giữ sự cảnh giác trí tuệ. (Our doubting and questioning spur us on and keep us intellectually
alert).
Nói tóm lại, hoài nghi là một
hành trình để đi tới chân lý. Chúng ta không đạt được chân lý nếu không biết cách
hoài nghi, và biết cách tra vấn. Những đỉnh cao tư tưởng ra đời đều phát xuất từ
sự hoài nghi một đỉnh cao cũ, và con người tìm cách vượt qua đỉnh cao cũ bằng một
quá trình nhận thức mới.
Hoài nghi là linh hồn của mọi hoạt động nghiên
cứu, tìm tòi chân lý. Bởi vậy nên hoài nghi trở thành một yếu tố không thể tách
rời khỏi chân lý.
II.-Phương pháp hoài nghi của Đức Phật:
A.- Nguyên nhân Đức Phật
thuyết giảng bài Kinh Kalama:
Vào thời Đức Phật
Thích-ca Mâu-ni [khoảng 654 tr. CN – 544 tr. CN] còn sanh tiền, bộ tộc Kalamas
(Kalama clan) đã chiếm ngự và sống theo chế độ Cộng hoà tại thị trấn Kesaputta
( Kesaputta town, có tên cổ xưa là Kesariya), thị trấn này ở trong một quận của
Đông Champaran [East Champaran] thuộc tiểu bang Bihar bây giờ, ở xứ Ấn độ.
Tại thị trấn Kesaputta có một bảo tháp (stupa) Phật giáo đã được xây dựng bởi Đại đế Asoka. Ngài là vị vua thứ ba của Vương triều Mauryan (khoảng 273 tr. CN – 232 tr. CN).
Tại thị trấn Kesaputta có một bảo tháp (stupa) Phật giáo đã được xây dựng bởi Đại đế Asoka. Ngài là vị vua thứ ba của Vương triều Mauryan (khoảng 273 tr. CN – 232 tr. CN).
Bihar là một tiểu bang ở phía Đông
Ấn độ, có dòng sông Hằng (Ganges) chảy ngang từ phía Tây sang phía Đông. Phía Đông
- Bắc của bang Bihar giáp với xứ Népal, phía Đông - Nam giáp với xứ Bangladesh.
Bihar là tiểu bang có số dân đông hàng thứ tư, và lãnh địa rộng lớn vào hàng thứ
12 ở Ấn độ.
Các thành phần ưu tú của bộ tộc
Kalamas đều là thành phần trí thức. Họ có đầu óc hiếu tri, muốn tìm tòi, hiểu
biết về tư tưởng, triết học và tôn giáo vào thời cổ xưa và đương thời. Nên họ
thường thỉnh mời các vị Thầy, Đạo sư, các Hiền triết, các nhà tư tưởng đến thị
trấn Kesaputta để thuyết giảng những tư tưởng, triết học, tôn giáo. Mỗi vị Thầy
đã giảng về học thuyết triết học và cách thực hành học thuyết này của chính vị
Thầy đó. Vị nào cũng kết luận rằng học thuyết và cách thực hành của mình là chân
lý (truth) còn các học thuyết có trước hoặc đồng thời với họ đều sai. Các tư tưởng,
triết học, tôn giáo của các vị Thầy này luôn luôn đối nghịch với nhau. Các vị ưu
tú của bộ lạc Kalamas hoàn toàn phân vân không biết phải tin ai, họ chưa thể
quyết định học thuyết nào mà họ phải chấp nhận và phải thực hành theo.
Nhóm ưu tú này đã nghe tiếng Đức Phật
là bậc giác ngộ, nên một hôm họ thỉnh mời Đức Phật đến thị trấn Kasaputta để
thuyết giảng cho họ nghe.
Bài thuyết pháp này thường được gọi
là “Bài thuyết pháp cho những người
Kalamas” (Discourse to the Kalamas) thường được gọi ngắn gọn là Kinh Kalama (Pa.Kalama sutta, Srt.
Kalama Sutra).
Bài Kinh Kalama được chép trong
“Tăng Chi Bộ Kinh”, ở tập I, trang
188 – 193 [Pa. Anguttara Nikaya, Av. Collection of Discourses from Gradual
Savings]. Người Tàu dịch chữ Anguttara
là tăng chi có nghĩa là (các bài kinh ngắn) tăng lên từng cái một,
theo từng thành phần.
Anguttara Nikaya là một trong 5 bộ Kinh (Nikaya) của Thượng Tọa
Bộ (Theravada):
1.-Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya, Av.
Collection of Long Discourses).
2.-Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya, Av.
Collection of Middle- length Discourses).
3.-Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya).
4.-Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya, Av.
Collection of Discourses from Gradual Savings).
5.-Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya, Av.
Collection of Short Discourses).
[Xem thêm : Biểu Nhất Lảm Tam
Tạng Kinh Điển Phật giáo của NVT]
Nhiều nhà Phật học Tây phương còn
gọi Kinh Kalama là “The Buddha’s Charter
of Free Inquiry” (Hiến Chương về Tự
do Tra Vấn của Đức Phật).
II.-Phương pháp hoài nghi của Đức Phật:
Bài Kinh Kalama được
ghi chép lại như sau:
Sau khi đảnh lễ Đức Phật, một
trong nhóm người ưu tú của bộ tộc Kalamas đã đưa ra vấn nạn của họ để nhờ Đức
Phật giảng giải, người ấy kể rằng có nhiều
Thầy, Đạo sư, Hiền triết đã đến đây thuyết giảng. Vị nào cũng giảng học
thuyết của mình là đúng và các học thuyết khác đều sai. Nhóm ưu tú này rất phân
vân, họ không biết phải tin theo vị Thầy nào; và họ thỉnh cầu Đức Phật chỉ dạy
để họ quyết định phải tin tưởng vị Thầy nào? Đức Phật trả lời:
-Này các vị Kalamas! Các
vị có quyền phân vân, có quyền hoài nghi; đây là một điều đúng.
Rồi Đức Phật giảng tiếp:
-Này các vị Kalamas:
1.-Đừng tin vào bất
cứ điều gì một cách dễ dàng bởi vì nó vừa được nghe qua.
2.-Đừng tin vào bất
cứ điều gì một cách dễ dàng chỉ vì nó được nhiều người nói đến, được nhiều người
đồn đãi.
3.-Đừng tin vào bất
cứ điều gì một cách dễ dàng mà các đệ tử đã đọc được trong các sách giảng về một
giáo điều, về một chủ nghĩa, về một tư tưởng triết học.
4.-Đừng tin vào bất
cứ điều gì một cách dễ dàng chỉ vì điều đó được nói ra và được bênh vực bởi các
bậc Thầy, các Đạo sư, bởi các bậc trưởng thượng được tôn trọng và được nhiều
người tuân theo; hoặc điều đó được phát xuất từ nơi có uy quyền.
5.-Đừng tin một cách
dễ dàng vào những tập tục, những định kiến (bias/ prejudices), những truyền thống
(tradition) mà chúng đã được truyền đệ qua nhiều thế hệ.
6.-Đừng tin một cách
dễ dàng vào một điều gì chỉ vì điều đó đã được lý luận và suy diễn cho rằng đúng.
[Giải thích: Lý luận suy diễn (the reasoning of logic) gồm có diễn dịch và
quy nạp (deductive and inductive reasoning) có thể sai lầm khi căn cứ vào các dữ
kiện (data) sai lầm, hoặc căn cứ vào các phương pháp (methods) sai lầm; hoặc
dùng lý luận để lèo lái, để định hướng vào một mục đích vượt ra ngoài chân lý: chúng ta thường thấy
các cuộc vận động chính trị (political campaigns), hoặc các cuộc tranh luận về
tôn giáo (religious debate) thường áp dụng thủ thuật này.]
Này các vị Kalamas! Điều quan trọng nhất là các vị phải quan sát,
phân tích và trải nghiệm tất cả các điều đó để xác định rằng điều gì tốt, điều
gì là đúng, điều gì là sự thật, là chân lý, điều gì có ích cho người khác và
cho chính bản thân mình. Sau đó, các vị hãy chấp nhận điều tốt ấy và sống theo điều
nầy.
Để kết thúc bài thuyết pháp,
Đức Phật đã thuyết giảng giáo pháp của Ngài:
-
Các vị phải dứt bỏ tham, sân
và si (greed, hate and delusion).
-
Các vị phải phát triển tứ
vô lượng tâm (the four immeasurable minds): từ, bi, hỉ và xả (love,
compassionate, joy and equanimity) để tìm hạnh phúc trong cõi đời này; đây là điều
cốt yếu cho bậc giác ngộ.
Thính chúng
– nhóm ưu tú của bộ tộc Kalamas tức là
nhóm trí thức của bộ tộc này- nghe xong bài thuyết pháp, vị đại diện đã đứng lên
cám ơn Đức Phật và hết lòng tán thán lời dạy của Ngài. Họ hứa sẽ thực hành lời
dạy của Đức Phật. Nhiều vị trong nhóm ưu tú này đã xin quy y Tam Bảo.
III.-Bài học từ “Phương pháp hoài nghi của Đức Phật”:
Đức
Phật đã giảng Kinh Kalama cho nhóm ưu
tú – nhóm trí thức- của bộ tộc Kalamas. Các vị trí thức này đã lắng nghe, đã hiểu
và hứa sẽ thực hành lời dạy của Đức Phật.
Nội dung của Kinh Kalama là “Phương pháp hoài nghi của Đức Phật” đã
dạy cho chúng ta các điều sau đây:
-Đừng vội chấp nhận và tin
một cách dễ dàng vào bất cứ điều gì. Chúng ta phải kiểm tra, phải tra vấn, phải
phân tích để đánh giá điều đó, nếu điều đó đúng thì mới chấp nhận; ngay cả những
lời dạy của Đức Phật nữa.
-Lời dạy của Kinh Kalama rất
nỗi tiếng là sự khuyến khích tự do tra
vấn (encouragementof free inquiry):
từ hoài nghi, chúng ta phải tra vấn, phải vặn hỏi, đặt vấn đề để đi đến tìm hiểu
chân lý. Đức Phật dạy: “Bạn hãy tự thắp đuốc mà đi.” (Be a lamp unto yourself). Kinh Kalama đã dạy một hành trình tâm
linh của phương pháp hoài nghi là phải từ bỏ lòng cuồng tín (fanaticism) hay đức
tin mù quáng (blind faith), sự cố chấp (bigotry), giáo điều (dogmatism) và sự
không-khoan dung (in-tolerance). Tra vấn là kỷ luật tìm kiếm chân lý, trí tuệ và
kiến thức. (the discipline of seeking truth, wisdom and knowledge).
-Kinh Kalama là một món quà
tâm linh quý giá cho mọi người. Nguyên lý hoài nghi của Kinh Kalama thích hợp với
mọi người, mọi nơi, mọi thời đại. Kinh Kalama là một lời tuyên bố cách mạng (a
revolutionary statement) trong lịch sử tư tưởng triết học và tôn giáo.
Toronto, 18 March 2020.
Nguyễn Vĩnh Thượng
Tài liệu tham khảo chính yếu:
-Bercholz, Samuel (edited) and Kohn, Sherab Chodzin (edited), The Buddha and His teachings, Boston (Massachusetts, USA): Shambhala Publications Inc., (First published 1993), 2003.
-Bercholz, Samuel (edited) and Kohn, Sherab Chodzin (edited), The Buddha and His teachings, Boston (Massachusetts, USA): Shambhala Publications Inc., (First published 1993), 2003.
-Bhikkhu Bodhi, A look at the Kalama Sutta, Sri Lanka: Buddhist Publication
Society, 1998. Source: Internet.
-Bhikkhu Thanissaro (translated), Kalama Sutta: To the Kalamas, 1994.
Source: Internet.
-Bloom, Alfred, Emeritus Professor, Critical Thinking in Buddhism: The Kalama Sutta, Hawaii: University
of Hawaii, Website: “Shin Dharma Net” supported by Buddhist Study Center, 2012.
-Hiriyanna, M., Outlines of Indian Philosophy, London: George Allen & Unwin Ltd, 1932.
-Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử Triết Học Đông Phương, gồm 5 tập, xuất bản ở Saigon:-Tập I: NXB Linh Sơn, 1956; Tập II: NXB Linh Sơn, 1956; Tập III: NXB Đông Phương, 1956; Tập IV: Bộ Quốc Gia Giáo Dục Saigon, 1962; Tập V: Bộ Quốc Gia Giáo Dục Saigon, 1964.
-Hiriyanna, M., Outlines of Indian Philosophy, London: George Allen & Unwin Ltd, 1932.
-Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử Triết Học Đông Phương, gồm 5 tập, xuất bản ở Saigon:-Tập I: NXB Linh Sơn, 1956; Tập II: NXB Linh Sơn, 1956; Tập III: NXB Đông Phương, 1956; Tập IV: Bộ Quốc Gia Giáo Dục Saigon, 1962; Tập V: Bộ Quốc Gia Giáo Dục Saigon, 1964.
-in lại trọn bộ 5
tập do NXB TPHCM, 1991.
-Radhakrishman, S., Indian Philosophy, Published by S. K. Mookerjee,
Oxford: Oxford University Press, 1930.
-Radhakrishman, S., Indian Philosophy, Published by S. K. Mookerjee,
Oxford: Oxford University Press, 1930.
-Sinha, J., Outlines of Indian Philosophy, Calcutta: J.N.Sen, 1985.
-Sharma, C., A Critical Survey of Indian Philosophy, Delhi: Motilal Banarsidass,
1977.
-Sideritis, Mark, Buddhism as Philosophy: an Introduction, USA: Hackett Publishing Company Inc., 2007.
- Suhas Chatterjee, Indian Civilization and Culture, New Delhi: MD Publications PVT Ltd, 1998.
-Sideritis, Mark, Buddhism as Philosophy: an Introduction, USA: Hackett Publishing Company Inc., 2007.
- Suhas Chatterjee, Indian Civilization and Culture, New Delhi: MD Publications PVT Ltd, 1998.
-Thích Mãn Giác, Lịch sử Triết học Ấn độ, Saigon: Đại học Vạn Hạnh, 1967.
in lại NXB Văn Hóa Sài Gòn, 2007.
in lại NXB Văn Hóa Sài Gòn, 2007.
-Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), Saigon: Viện Phật học Vạn Hạnh,
1980.
-Thích Quảng Liên, Sử cương Triết học Ấn độ, Saigon: tác giả x.b., bài cours cho sinh viên chứng chỉ Triết học Ấn độ, ĐHVK Saigon, 1965.
-Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật giáo Ấn độ, Saigon: Lê Thanh Thư xã, 1963.
-Thích Thiện Hoa, Phật học Phổ thông từ khóa I đến khóa XII (gồm 12 quyển), đã xuất bản ở Saigon từ 1955 – 1964. Tái bản: Phật Học Viện Quốc tế, Sepulveda, CA, USA, 1982.
-Thích Quảng Liên, Sử cương Triết học Ấn độ, Saigon: tác giả x.b., bài cours cho sinh viên chứng chỉ Triết học Ấn độ, ĐHVK Saigon, 1965.
-Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật giáo Ấn độ, Saigon: Lê Thanh Thư xã, 1963.
-Thích Thiện Hoa, Phật học Phổ thông từ khóa I đến khóa XII (gồm 12 quyển), đã xuất bản ở Saigon từ 1955 – 1964. Tái bản: Phật Học Viện Quốc tế, Sepulveda, CA, USA, 1982.