Nguyễn Vĩnh Thượng
Lời
tác giả : Bài “ Cao
Lãnh, Quê hương tôi” đã đăng trong Tập
San Nghiên Cứu Văn Hoá: Đồng Nai-
Cữu Long” ở California,Hoa Kỳ, số 2: tháng 7 năm 2005:
“Đồng Nai chim đậu đất lành,
Cửu Long trù phú dân tình ấm no.
Phương Nam khai phóng cõi bờ,
Con đường nhân bản tự do đời đời”.
NTL
Tôi đăng lại bài viết này để tưởng nhớ đến hai vị đã
giúp tài liệu để tôi viết bài này, một phần
của non sông gấm vóc ở phương
Nam: - Bà Nguyễn thị Quỳnh đã qua đời vào ngày 27 tháng Giêng năm 2010 tại
Paris, Pháp,hưởng thọ được 95 tuổi. Và cụ Trần Quãng Đại đã qua đời vào ngày 13
tháng 12 năm 2010, hưởng thọ được 89 tuổi tại Toronto, Canada.
Tôi có sữa chữa và bổ túc một vài chổ trong bài đăng lần
thứ hai này .
Toronto, 24 tháng 12 năm
2013
NVT
* * *
*
* *"Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ"
Cách đây hơn 10 năm, ông bà Trần Quãng Đại đã định cư tại Toronto, Canada, do một người con bảo lãnh. Ông cụ đã cho tôi một số sách và tài liệu nói về đất Cao-Lãnh đồng thời cũng kể lại cho tôi nghe những nơi và những điều ông đã biết trong quãng đời ông đã sống tại Cao-Lãnh và Sa-Đéc. Cụ nay đã 83 tuổi.
Nhà văn Huỳnh Trung Chánh, từ một thành phố ở California Hoa Kỳ, đã gởi cho tôi một số tài liệu về Cao-Lãnh.
Mẹ tôi, Bà Nguyễn Thị Quỳnh, nay đã 90 tuổi, đang định cư ở Paris, Pháp cũng đã kể cho tôi nghe nhiều điều mắt thấy tai nghe về Cao Lãnh, nhất là Bà đã chép lại một bài thơ duy nhất mà bà đã sáng tác vào năm 1947, ghi lại tâm sự của Bà trong cuộc tản cư của dân Cao-Lãnh trước cảnh khói lửa chiến tranh vào hồi đó.
Thêm vào đó, một số thân hữu của tôi ở xa và gần: có vị gởi tài liệu, có vị điện thoại kể lại việc này việc khác, có vị đã gởi e-mail (điện thư) góp ý và cho thêm tài liệu về Cao-Lãnh.
Tôi chân thành cám ơn tất cả các vị đã nêu trên.
Khi sắp xếp tài liệu lại để căn cứ vào đó mà viết về Cao-Lãnh, tôi nhận thấy rằng tài liệu vẫn hãy còn thiếu sót, có nhiều điều tôi chưa biết hết, và ngay cả điều tôi được biết thì cũng chưa chắc đã đúng. Thiếu sót, lệch lạc thì có thể đưa đến chỗ những điều tôi viết có thể sai lầm. Tôi ước mong các độc giả sau khi đọc những gì tôi viết về đất Cao-Lãnh nếu có chỗ thiếu sót, có chỗ sai thì quí vị giúp giùm bổ sung và sửa chữa lại.
Cao-Lãnh chỉ là một vùng đất nhỏ ở phương Nam của đất nước Việt Nam. Ngày xưa, cả vùng đất mới ở
phương Nam gọi là Nam-Kỳ Lục Tỉnh vì gồm có 6 tỉnh như sau: 1. Biên Hòa, 2. Gia
Định, 3. Định Tường, 4. Vĩnh Long, 5. An Giang, 6. Hà Tiên. Đất nước ta đã bắt
đầu mở mang bờ cõi đi về vùng đất phía nam, một miền đất trù phú và thịnh
vượng, đã được khoảng 300 năm nếu tính từ lúc chúa Nguyễn Phước Nguyên gả công
chúa Ngọc Vạn cho quốc vương Chân Lạp Chey Chetta II năm 1620 rồi mượn đất Prey
Nokor-Kaskobey để thiết lập trạm thuế (1623), rồi được quốc vương Nặc Tôn của
nước này dâng đất Tầm Phong Long năm 1757 để tạ ơn. Rồi Nghi Biểu Hầu Nguyễn Cư
Trinh lo việc bảo vệ và mở mang đất Gia Định trong vòng 11 năm (1754-1765), rồi
Tông Đức Hầu Mạc Thiên Tứ với chức vụ Khâm Sai Đô Đốc trấn thủ Hà Tiên đã mở
mang đất Hà Tiên (gồm Hà Tiên - Rạch Giá – Cà Mau) … cho đến ngày nay, năm
2004.
Trong bài này, tôi sẽ viết về nguồn gốc địa
danh Cao-Lãnh, di tích Tháp Mười và nền văn hóa Óc Eo.
Trong tương lai, nếu có cơ hội thuận lợi,
tôi sẽ viết tiếp về
- Các nhà cách mạng kháng chiến chống Pháp
tại Cao-Lãnh và các nhân vật có uy tín tại Cao-Lãnh,
- Tinh thần dân Cao-Lãnh hay là phong cách
của người dân Cao-Lãnh. Văn thơ Cao-Lãnh, một mảnh văn chương của văn học miền Nam;
- Phật giáo xứ đàng trong ở tại Cao-Lãnh,
Hòa Thượng Phạm Văn Hổ, tức Hòa Thượng Hấu, và quan niệm độc đáo của vua Tự Đức
(1847-1883) trong việc sắc phong các cư sĩ có đạo cao đức trọng làm Hòa Thượng,
một chức sắc cao cấp trong hàng giáo phẩm của Phật Giáo.
I.
Nguồn gốc địa danh Cao-Lãnh
Cao-Lãnh cách Sài Gòn 162 km đường bộ. Từ
Sài Gòn đi quốc lộ 4 (bây giờ là quốc lộ 1A) tới An Hữu rồi rẻ về phía phải để đi
vào đường liên tỉnh 40, tức là đường đi về phía Tây Bắc thì Cao-Lãnh cách ngả
ba An Hữu 36 km. Chúng ta cũng có thể đi qua Sa Đéc rồi từ Sa Đéc đi về
Cao-Lãnh cũng được, nhưng thời gian lâu hơn vì phải qua bắc Mỹ Thuận (bây giờ
đã có bắt cây cầu ngang qua sông Tiền khỏi phải chờ đợi qua bắc như trước) rồi
qua Sa Đéc, từ Sa Đéc đi Cao-Lãnh, trước khi qua Cao Lãnh thì phải qua bắc Cao
Lãnh. Cao Lãnh nằm bên dòng sông Cao Lãnh dài 16 km là một nhánh nhỏ của Tiền
Giang.
Dưới thời vua Gia Long (1802-1819), Cao
Lãnh (chưa có tên là Cao Lãnh) là một phần đất thuộc phủ Tân Thành tỉnh Định
Tường. Phủ Tân Thành gồm hai huyện: huyện Kiến Hưng và huyện Kiến Phong. Ông
Chưởng Dinh Nguyễn Hữu Cảnh đã thi hành lịnh của triều đình Huế để kêu gọi các
đồng bào từ miền Bắc và miền Trung vào khai khẩn đất hoang ở vùng đất mới này.
Một số lưu dân Cao Lãnh từ Thuận Hóa nhưng nhiều nhất là từ Quảng Nam, một ít
từ Phú Xuân và từ miền Bắc. Các lưu dân đến từ miền Bắc đã dứt khoát rời khỏi
lũy tre làng bao quanh các làng mạc ấm cúng của họ để đi vào vùng đất mới mà
khai khẩn đất hoang, những người đến từ miền Trung cũng rời bỏ nơi chôn nhao
cắt rún để đi lập nghiệp ở vùng đất mới này. Lúc đầu, các lưu dân Việt Nam tiền
phong đến khai khẩn ở Cao Lãnh phải cực nhọc và đối phó với nhiều thú rừng như
rắn độc, voi, cọp …, và phá các đám rừng nhứt là các rừng tràm ở vùng Đồng Tháp
Mười, thật sự thì không phải dễ ăn đâu. Cho mãi tới mấy đời sau, con cháu mới
được hưởng cảnh “làm chơi ăn thiệt”, một khi các rừng rậm đã được
khai khẩn để trở thành đồng ruộng bao la, “cò
bay thẳng cánh”.
Các vị tiền phong khai khẩn đã nói:
“Muỗi
kêu như sáo thổi,
Đỉa
lội tựa bánh canh.
Cỏ
mục thành tinh,
Rắn
đồng biết gáy.”
(Ca dao)
Vùng Đồng Tháp Mười là một vùng nước mặn đồng
chua, nước có nhiều phèn. Đất đai ở đây rất thích hợp với cây tràm. Do đó có rất
nhiều tiền nhân đến đây gây dựng thêm các cánh đồng tràm, ngoài các rừng tràm sẳn
có.
*
* *
* Tôi xin mở ngoặc ở đây để nói một chút về
các chuyện có liên đến bên ngoại tôi .Ông Nguyễn Xuân Trước (1874 – 1957) là
ông ngoại của tôi, theo lời kể lại của má tôi thì ông ngoại là một bậc thâm nho
và cũng là một thương gia có tiếng ở Cao Lãnh. Ngoài lãnh vực thương nghiệp ông
còn tạo lập hàng ngàn mẫu ruộng và cấy trồng hàng trăm mẫu tràm. Tràm là loại
cây sống ở vùng nước động. Vườn tràm của ông nằm kế vườn Tràm của người em thứ
sáu của ông là ông Nguyễn Thành Tố, dân Cao Lãnh trong thập niên 1940 thường
gọi là Sáu Tố. Vườn tràm Sáu Tố là vườn tràm nổi tiếng ở nơi đó.Ông ngoại tôi
cấy trồng tràm nhằm cung ứng cho nhu cầu vật liệu xây cất. Ngoài ra ông còn
trồng hàng trăm bụi tre và cây sao – một loại cây cung cấp ván gỗ trong việc
đóng ghe thuyền, đó là một phương tiện giao thông tối cần thiết cho vùng sông
nước Đồng Tháp Mười:
“Đồng Tháp Muời cò bay thẳng cánh,
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.”
( Ca dao)
Thật vậy, Đồng Tháp Mười có ruộng lúa phì nhiêu, cá tôm bơi lội lấp lánh đầy đồng, có rừng tràm dày đặc, có sen nở bạt ngàn.
Ông ngoại tôi đã lập “Vạn Thọ Trang” ở làng Hòa An vào thập niên 1930, cách chợ
quận lỵ Cao Lãnh khoảng 800 mét. Tại đây ông trồng nhiều loại cây kiểng có dược
tính trong thuốc nam để giúp chữa bệnh cho các bệnh nhân trong vùng; ông trồng
hoa Vạn Thọ rất nhiều, hoa Vạn Thọ là biểu tượng cho “Vạn Thọ Trang”. Vạn Thọ
Trang gồm có một biệt thự lớn để thờ ông bà và để ở, phía trước có hàng rào đúc
bằng xi-măng cốt sắt, có hai cửa lớn để đi vào gia trang , chạy thẳng hai bên hông
biệt thự, thích hợp với nguyên tắc phong thuỷ về thiết kế ngoại thất. Ngoài sau
biệt thự có nhiều mẫu đất , có một nhà dựa lúa để trử lúa sau muà gặt hái , có
trồng nhiều loại cây xoài như xoài thanh ca , xoài hòn, xoài tượng, xoài nghệ,
có trồng nhiều loại mận có cây trái rất bự ,đặc biệt có loại mận xanh rất ngọt,
có nhiều cây quit, cây cam, nhiều vú sửa như vú sửa tím,vú sửa trắng, có loài vú
sửa có thể lột vỏ như lột vỏ củ khoai lang. Ở phía sau hơn nữa, có nhiều mẫu đất
vào mùa nước nổi thì trồng lúa , còn mùa nước khô thì trồng thuốc hút để Ông hút
và bán … Sau 1975, Vạn Thọ Trang đã trở nên hoang tàn, vì các con cháu không còn
sống ở đây nữa.
Má tôi kể lại rằng anh của Má tôi là ông Nguyễn Xuân Khôi (1912 – 1943) đã đến sống ở đồng Tháp Mười mấy tháng rồng rả để trông coi việc cấy trồng tràm trong các cánh đồng của ông ngoại tôi. Trong thời gian này, cậu N.X. Khôi đã dùng quả lắc (pendule) để tìm hiểu tính chất của vùng đất này dựa vào khoa học quả lắc, Ông tiên đoán vùng Đồng Tháp Mười có quặn mỏ ở dưới lòng đất như mỏ dầu lửa, dầu khí. Trước năm 1975, Ba tôi đã dựa vào các sách vở tài liệu mà ông đã đọc thì thấy nói nơi nào có nhiều tôm thì nơi đó có thể có mỏ dầu lửa. Ba tôi nói lời tiên đoán của cậu Khôi hồi khoảng năm 1930 có thể đúng. Cậu Khôi đã được ông Ngoại tôi cho đi du học ở Hà Nội vào đầu thập niên 1930. Hồi đó, các thanh thiếu niên ở miền Nam thường được cha mẹ cho đi du học hoặc ở Pháp hoặc ở Hà Nội vì Saigon chưa có trường Cao đẳng hoặc Đại học. Cậu Khôi là một công tử thông minh và hiếu học. Ở Hà Nội , vào thập niên 1930, ông là người Việt Nam đầu tiên đã diển thuyết, giới thiệu công dụng của quả lắc trong việc chuẩn mạch bệnh nhân, dự đoán người phụ nử đang mang thai sẽ sanh ra con trai hay con gái, việc tìm mạch nước ở dưới lòng đất, quặng mỏ v… v…
Hồi tháng 9 năm 2012, một vị bà con với tôi là cụ Trần Châu Trần đã gởi tặng cho tôi quyển sách xưa đã được in lại bằng phóng ảnh do cậu Khôi đã viết như sau :
Tác giả : NGUYỄN XUÂN KHÔI
Tên sách : KHOA HỌC QUẢ LẮC
La Science du Pendule – (
Radiesthésie)
Lời tựa: Bác Sĩ NGUYỄN VĂN NHÃ
Nhà xuất bản: VŨ-TRANG, ở Cholon: Juillet 1938
Đây là một quyển sách có giá trị vào cuối thập
niên 1930: giới thiệu khoa học quả lắc, và chỉ cách sử dụng quả lắc để dự đoán
các điều đã viết ở trên.
Trong lời tựa, Bác sĩ Nhã đã giói thiệu tác
giả và tác phẩm về khoa học quả lắc như sau:
“… ông Nguyễn Xuân Khôi là một thiếu niên
háo học.
(…) người ta chẳng những dung cái quả lắc
để tìm mội nước, mà người ta lại dung để đoán bịnh, để bói món thuốc nào trị lành
bịnh, để hỏi coi vật ăn thức uống có bị tẩm độc không?
……………………………………………………
Tôi thấy nhiều lần cái quả
lắc không cải tôi những khi tôi xem mạch định chứng binh.Thành thử, lắm khi tôi
dùng quả lắc để hỏi nhỏ trước coi người bịnh đau chứng gì. Vậy sau tôi mới dùng
khoa học mà nghiên cứu lại.
…………………………………………
Ông N.X.K có công khảo cứu
một khoa-học ít người An-nam để ý. Rất khen ông ham học, tò mò sưu tầm. ( …..) Chắc rằng công chúng
sẽ hoan-nghinh cuốn sách của ông”.
Saigon, Juillet
1938
Docteur NGUYEN-VAN-NHA
* * *
·
* Tương truyền vào năm Đinh Sửu (1817)
dưới đời vua Gia Long (1802-1819), Ông và Bà Đỗ Công Tường gốc ở Quảng Nam đã
hưởng ứng lời kêu gọi của Chưởng Dinh Nguyễn Hữu Cảnh di dân tới lập nghiệp tại
làng Mỹ Trà. Ông Đỗ Công Tường, có tục danh là Lãnh, là người chánh trực, nho
học am tường nên được cử làm chức Câu Đương, chức này có nhiệm vụ phân xử các
vụ tố tụng trong làng. Ông lập một vườn quýt rộng lớn, các cây quýt có rất
nhiều trái nặng trĩu, trong vườn quýt này có một sân rộng sát bên nhà được ông
và nhiều người dân dùng làm nơi buôn bán đổi chác như một cái chợ.
Vào năm Canh Thìn (1820), tại làng Mỹ Trà đã xảy ra một nạn dịch
trời, dịch này lan tràn quá nhanh chóng, dân chúng bị dịch chết như rạ, không
thuốc nào chữa trị được để ngăn chận dịch này. Cái chợ bên nhà ông Tường dần
dần vắng bóng người lui tới vì nạn dịch này. Ông Bà Đỗ Công Tường động lòng
trắc ẩn trước cảnh dân chúng ở đây chết chóc bởi nạn dịch này mà không có thuốc
nào chữa chạy, nên hai Ông Bà mới nghĩ ra cách đặt bàn hương án giữa trời, tại
sân chợ bên nhà ông, rồi Ông Bà khấn vái xin Trời Phật cho Ông Bà chết thế mạng
cho dân chúng ở vùng này. Rồi vào mùng 6 tháng 6 năm Canh Thìn (1820), Ông Bà
bắt đầu ăn chay liên tục và cầu khấn Phật Trời mỗi ngày để dân tình thoát khỏi
nạn dịch này. Qua ngày mồng chín thì Bà Tường lâm bịnh dịch trời, tắt hơi thở
vào lúc 10 giờ đêm. Ngày hôm sau, tức ngày mồng mười, thì Ông bất thần ngả ra
chết theo Bà. Dân làng xúm lại lo an táng cho hai Ông Bà cùng một lượt.Một điều thần bí và kỳ diệu xảy ra là sau
khi dân chúng đã chôn cất Ông Bà xong thì dịch trời chấm dứt và dân chúng không
còn bị dịch trời hoành hành nữa, dân chúng được bình phục và trở lại cuộc sống
bình thường. Lời cầu nguyện rất thành tâm của Ông Bà Đỗ Công Tường đã được ơn
trên chứng giám.
Dân chúng lại tiếp tục nhóm chợ ở vườn quýt bên nhà Ông Bà Tường. Để
tưởng nhớ công đức Ông Bà Đỗ Công Tường, dân chúng đặt tên cái chợ ở vườn quýt
bên cạnh nhà Ông Bà là chợ “Câu Lãnh”.
Dân chúng đã họp lại, bàn luận, quyết định lấy chữ “Câu” từ chức “Câu Đương”
của ông, và chữ “Lãnh” là tục danh
của ông mà kết hợp lại thành “Câu Lãnh”.
Lâu dần chữ “Câu” đã được đọc trại ra
là “Cao”, có nhiều bô lão đã giải
thích vì có nhiều người Việt gốc Hoa buôn bán ở chợ này phát âm là “Cao” thay
vì “Câu”, âm Cao nghe cũng suông tai nên rồi mọi người đều phát âm là “Cao Lãnh” cho đến ngày nay.
Sau đó dân chúng đã cùng nhau đóng góp: kẻ góp công, người góp tiền
mua vật liệu, để lập miếu thờ Ông Bà Đỗ Công Tường ở ngay nơi hai ngôi mộ của
Ông Bà ở làng Mỹ Trà làm nơi thờ phượng hai Ông Bà.
Hằng năm, vào ngày mùng 9 và mùng 10 tháng 6 âm lịch là ngày vía Ông
Bà, ban Tế Tự và dân chúng tấp nập kéo đến miếu cúng vái và cầu nguyện khói
hương nghi ngút. Dân chúng ở đây đã và đang hết lòng kính trọng Ông Bà Cao
Lãnh, nên trải qua nhiều biến cố và chiến tranh lâu dài ở Việt Nam, miễu thờ
Ông Bà Cao Lãnh vẫn còn nguyên vẹn trước nhiều cảnh thay chủ đổi ngôi ở đây.
Miễu thờ ở dựa mé kinh Thầy Khâm, cách châu thành quận lỵ độ ba trăm thước.
Theo dân chúng, miễu thờ Ông Bà Cao Lãnh rất hiển linh, họ thường đến đây để
khấn vái cho tai qua nạn khỏi và làm ăn phát đạt thịnh vượng, gia đình bình an
v.v…
Rất nhiều người đến đây để xin xâm, lấy quẻ xem điềm tốt xấu mỗi khi
muốn quyết định làm một việc gì, chẳng khác nào quang cảnh xin xâm ở lăng Quan
Thượng Tả Quân Lê Văn Duyệt tại bà Chiểu, thuộc tỉnh Gia Định ngày trước.
Trần Quang Hạo trong quyển “Cao Lãnh đến 1954” xuất bản tại Cao Lãnh
tháng 7 năm 1963, tr. 24 đã ghi “Ủy Ban Hành Chánh địa phương (1945) và tướng
Nguyễn Hòa Hiệp, đệ tam sư đoàn (1946) trước khi rút vô Đồng Tháp Mười lập
chiến khu đều đến xin xâm nơi đây”.
Văn tế Ông Bà Câu Lãnh ở làng Mỹ Trà
“Lò tạo ai xây, mảnh hình ai đấp, tiếng
tiêu thiều chín chặp; sùi sụt kia vì nỗi đắng cay, thiết vắn tế mấy hàng tình
tự kể ra tích lớp.
Thuở Minh Mạng kinh quyền, người có chức
chốn thị thuyền, sắm sửa cũng xuê xang, năm Canh Thìn (1820), phong khí đất
khôn dời, thấy thiên hạ nhộn nhàng như sấm chớp.
Ngài thấy vậy đau lòng xót dạ, thiết đàn
cầu an ổn nhơn dân; Trời nghe cho trước vợ, sau chồng, muốn tiếng để cho thạnh
hòa hương ấp, thời đồng theo đi xuống chốn huỳnh tuyền, đều dị oái mới về miền
thạch lập, cơn sóng gió phu thê là nghĩa trọng, đem thân cầu thế từ ít muôn
ngàn; cuộc sống tang thương biến cải khó bao nài.
Thay phận cứu tri sanh nhiều mấy thập, thảm
là thảm Bà mồng chín ngày trong tháng sáu, bước chân lên Ngọc Đế quì tâu;
thương là thương Ông mồng mười sau có một ngày, nhón gót xuống Diêm Vương mà
báo cấp.
Người dường ấy mà công trạng dường ấy, nay
hương thôn cám tưởng tấm lòng vàng; thấy giang san mà tủi hổ với giang san, nên
phổ hội sấm dưng bàn lễ bạc, ngọn rau tấc đất nhân ân, bát nước cây hương xin
hưởng giúp cho hương lý thờ thay, võ lao thiểu nhựt tân, trong phổ hội đặng
khương cường sĩ dân tập.
Hởi ôi !
Thương thay !
(Khuyết danh)
Bài
thơ vịnh Ông chủ chợ Cao Lãnh
Muôn miệng như nhau đã nói rành,
Câu-Đương là chức, Lãnh là danh.
Lập làng khó nhọc, công vừa dứt,
Cất chợ chăm nom, việc mới thành.
Dân đụng giặc trời, cam thọ tử,
Cụ đền nợ nước, quyết hy sinh.
Thoát nàn, bá tánh lo thờ phượng,
Miễu đó ngàn thu rạng tiết lành.
( Lãng Ba )
CHỦ THỊ ĐỖ CÔNG
Hai câu liễn ở trước hai bên miếu :
Mỹ
kiểng Câu Đương hữu chí lập thành sanh bửu cuộc,
Trà
giang Lãnh thị triêm ân thương mãi nhựt vinh ba.
Một tấm liễn treo ở trong miếu do ông Đại
Hương Cả Huỳnh Kim Sanh cúng dường :
“Chủ Thị Miếu”
Một tấm liễn treo tại bái đường do ông
Huỳnh Thanh Phẩm cúng dường :
“Hiển Thế Lưu Danh”
Năm 1914, dưới triều vua Duy Tân
(1907-1916) quận Cao Lãnh được thành lập thuộc tỉnh Sa Đéc. Châu thành quận
Cao Lãnh được đặt tại làng Mỹ Trà.
Lúc đó tỉnh Sa Đéc gồm có 3 quận : Quận Châu Thành, quận Cao Lãnh và quận Lai
Vung. Sa Đéc do tiếng Miên là
Phsar-Dek, nghĩa là chợ sắt.
Hồi năm 1935, ông Huỳnh Kim Sanh là Đại
Hương Cả làng Mỹ Trà đã thỉnh cầu ông Đốc Phủ Lê Văn Giáp, chủ quận (bây giờ là
quận trưởng) Cao Lãnh đệ trình lên triều đình Huế xin phong thần cho ông Chủ
Chợ Cao Lãnh. Qua năm 1936, vua Bảo Đại (1926-1945) đã ra sắc phong ông Đỗ Công
Tường là “Dực Bảo Trung Hưng Thành Hoàng
Chi Thần”.
Quận Cao Lãnh ở giữa Nam Việt, nằm bên phía
trái sông Tiền, phía đông giáp tỉnh Mỹ Tho (sau đổi là tỉnh Định Tường và Kiến
Tường), tây giáp tỉnh Long Xuyên (An Giang) phía nam giáp Sông Tiền, phía bắc
giáp tỉnh Tân An (Long An).
Quận Cao Lãnh có 3 tổng là :
1. Tổng An Tịnh gồm có các làng Hòa An, Tân
Thận Đông, Tân Thuận Tây, Tân Tịch, Tân Thới.
2. Tổng Phong Thạnh thuộc châu thành quận
Cao Lãnh đặt tại làng Mỹ Trà gồm có các làng An Bình, Mỹ Ngãi, Mỹ Trà, Nhị Mỹ,
Phong Mỹ, Tân An.
3. Tổng Phóng Nẫm gồm có các làng Bình Hàng
Tây, Bình Hàng Trung, Bình Thạnh, Mỹ Hiệp, Mỹ Hội, Mỹ Long, Mỹ Thành, Mỹ Thọ,
Mỹ Xương.
Năm 1956, dưới thời đệ nhất Việt Nam Cộng
Hòa, chính phủ Sài Gòn đã thành lập tỉnh Kiến Phong, tỉnh lỵ đặt tại Cao Lãnh,
từ đó Cao Lãnh tách rời khỏi tỉnh Sa Đéc. Kiến Phong có các quận Hồng Ngự,
Thanh Bình, Cao Lãnh … Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hai tỉnh Kiến Phong và Sa
Đéc được sát nhập thành tỉnh Đồng Tháp. Tỉnh Đồng Tháp gồm có hai thị xã là Cao
Lãnh và Sa Đéc. Thị xã Cao Lãnh là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp; như vậy, Sa Đéc
không còn là tỉnh lỵ nữa; tỉnh Đồng Tháp có các quận : Tân Hồng, Hồng Ngự, Tràm
Nông, Thanh Bình, Tháp Mười, Cao Lãnh, Lấp Vò, Châu Thành, Lai Vung.
Tỉnh Đồng Tháp là một trong ba tỉnh của
vùng Đồng Tháp Mười, là một trong 9 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, là một
trong 58 tỉnh của Việt Nam.
South VIETNAM map
Vị trí Cao Lãnh ở miền Nam & ở tỉnh Đồng Tháp (1999)
Cao
Lãnh Phong Cảnh :
Cao Văn tự thử kiến đa tài,
Lãnh địa tằng văn cửu sĩ giai.
Phong sương sơ đáo tình vô hạn
Cảnh sắc xuân quang phụng hỉ hài.
(khuyết danh)
Vịnh
Cao-Lãnh
Cõi Việt trời Nam tiếng sấm vang,
Nước sông Cao-Lãnh trở màu vàng,
Đất vung ngòi viết dòng to nhỏ,
Cồn nổi lòng nghiên cái dọc ngang;
Việt-thạch hiện-thường ngôi chủ-tể,
Bửu-tinh chớp nhoáng cửa văn-chương;
Mỹ-Trà trông thấy Văn-khôi vượng,
Ngựa tía cương buông đã chật đàng.
(Ng. M. T., Sađéc nhơn-vật chí, 1926)
Vài đặc điểm của Cao Lãnh:
* “Thuốc
rê Cao Lãnh thơm nồng,
Con
gái Cao Lãnh má hồng thấy mê”.
( Ca dao )
·
* *
Gà nòi và thuốc lá Cao Lãnh:
“Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh,
Thuốc
nào bảnh bằng thuốc Hoà An”.
(Ca dao)
-
Gà nòi Cao Lãnh: ngày xưa, gà Cao Lãnh rất nổi tiếng vì gà có cựa dài,
gân rắn chắc,đá nước nạp. Gà Cao Lãnh đã từng đá độ với gà Bà Điểm, thuộc Quận
Hóc Môn, tỉnh Gia Định (trước 1975).Gà Bà Điểm có cựa cụt nhưng đòn đá rất nguy
hiểm, nổi tiếng ở miền Đông. Có nhiều độ đá ăn thua, gà Cao Lãnh ở Đồng Tháp Mười
đã thắng gà Bà Điểm ở miền Đông.
Gà nòi Cao Lãnh nỗi tiếng đến nổi nhiều người
dân Cao Lãnh được các nơi khác ví như là “gà Cao Lãnh”, tức là dân Cao Lãnh thì
ngon lành , bảnh lắm, cái gì cũng muốn làm trước thiên hạ, không muốn thua ai.
- Thuốc
lá: Cao Lãnh là vùng trồng rất nhiều thuốc lá, thuốc thơm với hưong vị đặc
biệt. Vào những năm 1940,41,42, thuốc lá Cao Lãnh đã được bán cho các hảng thuốc lá lớn
ở Saigon, Cholon như Bastos, Mic, Mitac, Cofat v..v...
·
* * *
Trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam, Cao
Lãnh là một vị trí chiến lược cho cả hai phía: Pháp và Việt Minh; bởi vì Cao
Lãnh ở gần biên giới Cao Miên, và Đồng Tháp Mười là nơi rừng rậm hiểm trở nên
Việt Minh lấy đó làm chiến khu. Theo hiệp định Genève 20 tháng 7 năm 1954, Việt
Nam bị phân chia làm hai miền Nam và Bắc lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến, Cao
Lãnh là một trong các điểm Việt Minh tập trung quân để đi tập kết ra Bắc trong
vòng 300 ngày.
Quân đội Hoa Kỳ đã đặt căn cứ quân sự ở Cao
Lãnh, ngày nay trên internet chúng ta có thể đọc nhiều bài các cựu quân nhân
Hoa Kỳ đã từng phục vụ tại Cao Lãnh. Các cựu chiến binh này có người viết bài
kỷ niệm, hồi bút hoặc tùy bút về vùng Cao Lãnh.
II. Di Tích Tháp Mười và nền Văn Hóa Óc Eo
Cao Lãnh nằm trên khu vực sông Cửu Long.
Theo các lý thuyết của các nhà địa lý học thì vào khoảng vài ngàn năm trước,
mực nước Biển Đông đã lên đến mức tối đa, nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long -
Ở hai bên nhánh Sông Tiền và Sông Hậu – đã từng bị ngập nước. Rồi dần dần mực
nước biển rút xuống và phù sa sông Cửu Long (hai nhánh Tiền và Hậu giang) đã
bồi dần dần thành đồng bằng bao la như ngày nay. Và từ nay cho đến vài trăm năm
tới thì mực nước Biển Đông có thể tăng thêm vài thước nữa, do đó hiện nay
thường có nhiều nạn lục ở châu thổ sông Cửu Long. Rồi khoảng vài ngàn năm nữa
thì mực nước Biển Đông sẽ rút xuống rất nhiều, Vịnh Thái Lan có thể trở thành
khô cạn, đồng bằng sông Cửu Long sẽ mở rộng ra.
Đồng bằng Sông Tiền và Sông Hậu gồm có các
tỉnh sau đây: An Giang, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà
Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
Ngày xưa, người ta thường đã thấy những di
tích của các tàu biển, có thể đã bị chìm, như cột buồm, lòi tói, mỏ neo … gần
Cao Lãnh còn thấy các gò cát trắng như Gò Bắc Vung, Gò Da, Gò Bắc Chiên, Gò
Đồng Tháp, Gò Động Cát; mà xưa kia có lẽ là các cù lao cát ven biển. Cánh đồng
bao la quanh Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười là một vùng đất trũng được phù sa sông
Cửu Long bồi đắp, nước mặn vẫn còn ứ đọng nhiều nơi, đất đai ngày xưa hãy còn
bỏ hoang và rất thích hợp cho cây Tràm, ở đây có nhiều rừng Tràm dày đặc; có
nhiều bàu sen, láng bông súng, lung năng, đồng lác. Ngày Xưa rừng rậm ở đây có
nhiều thú dữ như rắn, cọp, voi … ngày xưa có nơi voi đi hàng đàn nên gọi là
“Láng Tượng” ở gần làng Tân Phú. Người Việt Nam tiền phong đến khai khẩn đất
hoang ở Cao Lãnh ngày xưa đã nhận xét về Đồng Tháp Mười:
“Muổi kêu như sáo thổi,
Đỉa lội tựa bánh canh.
Cỏ mục thành tinh,
Rắn đồng biết gáy.” ( ca dao )
Cụ Trần Quang Hạo (1899-1981) suốt đời sống tại đất Cao Lãnh, là một
nhân sĩ có nhiều uy tín ở nơi đây đã chép:
“Hồi năm 1931, ông Đốc Phủ Trần Văn Mẫng, chủ quận Cao Lãnh, sau
khi đi kinh lý ở vùng đầm lầy này đã làm phúc trình nói về một ngôi tháp mà ông
thấy ở cánh đồng này lên cấp trên của ông. Cho nên qua năm 1932, ông
Parmentier, nhà khảo cổ trứ danh của trường Bác Cổ Viễn Đông ở Hà Nội đến viếng
di tích này, phái đoàn này đi bằng xuồng, bằng lỉa trâu vì chưa có đường giao
thông. Chính nhà bác học này xem chữ Phạn khắc trên mấy bia đá nứt nẻ vì phong
sương, tuế nguyệt và tan tác ngổn ngang, đã cho biết rằng đây là cái “Tháp Thứ
Mười” trong số mười cái tháp của vua chúa Thủy Chân Lạp hồi xưa. Vì thế thiên
hạ đã gọi cánh đồng mênh mông có cái tháp thứ mười ấy là “Đồng Tháp Mười”.
“Tháp Mười” làm toàn bằng
những tảng đá xanh ở trên một gò cát tại làng Mỹ Thọ thuộc quận Cao Lãnh vào
lúc bấy giờ. Chung quanh gò cát là một cánh đồng bao la cây cối um tùm, lau sậy
chằn chịt. Muốn vào Tháp Mười thì chỉ có thể đi bằng con sông Cần Lố (tiếng
Miên gọi là Nước Lộn), con sông này chảy quanh co giữa hai bờ lau sậy.
Ở phía trước Tháp Mười có
một tượng đá sư tử và một trụ cự thạch (trụ đá lớn) gọi là Linga (dương vật) ở trạng thái đầy sinh
lực tượng trưng cho sự sinh thành, sinh tồn tức là sự truyền giống. Trong tôn
giáo ở Ấn Độ, thần Siva-Bhadresvara được tượng trưng bằng Linga.
Một số di tích cổ cũng được tìm thấy ở đây như tượng Phật, các tượng thờ khác bằng đá, bằng đồng đều được đem về Viện Bảo Tàng Sài Gòn, Viện Bảo Tàng Sài Gòn được xây cất từ năm 1927 và hoàn thành năm 1929, lúc ấy có tên Viện Bảo Tàng Blanchard de la Brosse, đó là tên của Thống Đốc Nam Kỳ vào lúc đó. Năm 1954 có tên mới là Bảo Tàng Viện Quốc Gia có trên 5000 cổ vật thuộc các nền văn hóa của các nước Đông Nam Á.
Hồi năm 1964, giáo sư Nghiêm Thẩm (đã qua đời ở Sài Gòn sau năm
1975) đã hướng dẫn các sinh viên môn nhân chủng học đến thăm viện khảo cổ Sài
Gòn nói trên, ở trong khuôn viên Sở Thú/ Thảo Cầm Viên Sài Gòn. Tôi cũng đã
thấy Linga và còn cả Yoni (âm vật) là một trụ đá lớn mà phần
trên có hình như một cái chậu không sâu lắm. Linga và Yoni hợp lại để chỉ
cho sự sinh thành của vũ trụ. G.S. còn giải thích trên đầu cột trụ đá
“Linga” được bóng láng là vì các phụ nữ, theo tôn giáo thờ các hình tượng này,
tin rằng khi muốn cầu tự thì có thể lấy bàn tay xoa lên đầu Linga và khấn vái
cho được có con.
Ở Nhật Bổn, có vài nơi thờ Linga và Yoni được tạc bằng gỗ. Cứ mỗi
năm trước khi làm mùa, người ta thường làm lễ hội để cho Linga và Yoni đụng
chạm với nhau với một niềm tin là các vị thần này sẽ giúp cho được mùa.
Nhà khảo cổ Pháp Parmentier đã căn cứ vào minh văn ở một tấm bia nơi
tháp cổ này mà xác định rằng ngôi tháp cổ này được vua Javavarman VII (1181-1281)
cho xây dựng nên.
Tháp Mười cách chợ Cao Lãnh khoảng 9 km.
Ngoài ra chúng ta thấy còn 2 truyền thuyết nữa đã giải thích về
nguồn gốc của “ngôi tháp cổ lịch sử” này như sau:
1. Tháp Mười là cây tháp có 10 tầng của Thiên Hộ Dương đã xây cho
nghĩa quân làm trạm canh gác. Thuyết này không đứng vững, vì cách kiến trúc của
ngọn tháp cùng với những di tích để lại chứng tỏ Tháp Mười thuộc nền văn hóa Óc
Eo đã có từ thế kỷ I đến thế kỷ VI. Có thể Thiên Hộ Dương đã sử dụng cây tháp
có sẵn để làm vọng gác.
2. Tháp Mười là ngôi mộ tháp của vị vua thứ mười của vương quốc Phù Nam.
Thuyết này không có gì chứng minh một cách rõ ràng, như đã nói trên, nhà khảo
cổ Parmentier đã xác định là vua Javavarman VII (1181-1281) cho xây ngôi tháp
cổ này.
“Tháp Mười nước mặn đồng chua,
Phù sa muôn dậm của vua chùa vàng”
(Ca dao)
Đồng Tháp Mười nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng
sông Cửu Long thuộc về vương quốc Phù Nam vào thời xa xưa. Phù Nam (Fu
Nan) là tiếng phiên âm trong sử liệu cổ của Trung Hoa như Tấn Thư, Lương Thư từ
hai chữ Phạn “Biu Nam” để chỉ một vương quốc có trước vương quốc Khmer. Theo
truyền thuyết, vương quốc Phù Nam được thành lập do sự phối hợp của hai dòng họ
Somac (Mặt trăng) và Kaundynia (người thuộc đẳng cấp giáo sĩ Bà La Môn) vào đầu
thế kỷ I. Đế đô của đất Phù Nam là Vyadhapura (tiếng Phạn có nghĩa là đô thị
của các nhà săn bắn) nằm gần đồi núi “Ba Phnom” (Phnom có nghĩa là núi) và ở
gần xã “Ba Nam” ở trong tỉnh Prey Veng thuộc Cao Miên (Campuchia) ngày nay. Hồi
ấy, Phù Nam nằm trên đồng bằng sông Cửu Long bao gồm nhiều lưu vực của các con
sông như Sông Tiền, Sông Hậu, sông Vàm Cỏ, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn.
Qua thế kỷ II cho đến thế kỷ VI, vương quốc Phù Nam đã phát triển thế lực sau một
thời gian củng cố xây dựng nên một triều đại lớn. Triều đại Phạm Sư Man (Sri
Mara, tiếng Phạn) trị vì khoảng 225-230 Tây lịch là thời kỳ hưng thịnh của xứ
Phù Nam, trước sức hung mạnh đang lên, nhà vua cho đóng nhiều chiến thuyền để
vượt biển đánh chiếm thêm các nước ở ngoài hải đảo để mở mang bờ cõi. Vương
quốc Phù Nam đã thống trị cả
vùng đất bao la trải dài từ đồng bằng sông Cửu Long đến sông Ménam (Thái Lan)
và xuống đến tận các hải đảo Indonesia,
Mã Lai.
Từ giữa thế kỷ III đến giữa thế kỷ VI, Phù Nam đã liên hệ ngoại giao với Trung
Hoa và Ấn Độ.
Phù Nam
đã là một cường quốc đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Đông Nam Á, cũng như đế
quốc La Mã trong lịch sử Âu Châu. Uy thế của cả hai xứ này còn tồn tại khá lâu
sau khi bị sụp đổ.
Năm 1944, nhà khảo cổ người Pháp là Louis Mallaret, thuộc trường
Viễn Đông Bác Cổ, đã đào được nhiều cổ vật ở Óc Eo. Óc Eo là nơi thuộc xã Mỹ Lâm, tỉnh Long Xuyên bây
giờ; ở gần núi Ba Thê (Ba Phnom) ở Châu Đốc. Óc Eo là hải cảng của
Vyadhapura, theo sách cổ Trung Hoa thì đế đô Vyadhapura cách bờ biển 120 hải
lý. Tại Óc Eo thấy có nền một thành cổ dài 1500 thước, có nhiều đồ trang sức
với nhiều loại khác nhau: đất nung, thủy tinh, đá quý, kim cương, chì thiếc,
bạc vàng…còn có bùa đeo, con dấu và đồng tiền nhiều loại, có cả đồng tiền La Mã
nữa. Đặc biệt có nhiều đồng tiền cắt đôi, cắt tư, cắt tám làm tiền lẻ … Tôi nhớ
lại hồi khoảng 1953, 1954 ở Việt Nam người ta xé 1 đồng bạc giấy
“Bảo Đại” ra làm 2 phần bằng nhau theo chiều dọc để làm tiền lẻ, mỗi bên 5 cắc
(50 xu). Tại Óc Eo, nhà khảo cổ còn tìm thấy các khuê bài bằng vàng của hoàng
đế La Mã, Antonius Pius, năm 152 T.L. và các ấn chiếu ghi chữ Phạn thời này.
Óc Eo là trung tâm thương mãi của nhiều người ngoại quốc ở trên xứ
Phù Nam kể từ thế kỷ I. Xứ
Phù Nam
ở trên con đường thủy giao thông giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Các sử liệu cua Trung
Hoa đã chép rằng xứ Phù Nam có nhiều sông rạch lớn, đã giúp người Trung Hoa có
thể chạy thuyền buồm đi xuyên qua Phù Nam để đến hải đảo Mã Lai.
Theo truyền thuyết, có một cơn bão lụt dữ dội (tsunami) đã tàn phá
hải cảng Óc Eo và kinh đô Vyadhapura của vương quốc Phù Nam thành bình địa. Các nhà khảo cổ
và nhà sử học chưa xác định được năm nào.
Các nhà khảo cổ đã giải thích và xây dựng lại đời sống kinh tế,
phong tục, tập quán cũng như đời sống tinh thần, tín ngưỡng của cư dân ở đây.
Căn cứ trên các cổ vật, di tích tìm được tại Óc Eo, Các nhà khảo cổ gọi nền văn
hóa có đặc tính như ở Óc Eo là văn hóa Óc Eo. Văn hóa Óc Eo đã trải khắp trên
vương quốc Phù Nam
từ thế kỷ I đến thế kỷ VI. Riêng ở Việt Nam, nền văn minh này được trải
rộng từ cao nguyên Lâm Đồng cho đến vùng rừng rậm U Minh ở Rạch Giá Cà Mau.
Gần đây, một số cổ vật được khai quật có những đặc tính được xếp vào
nền minh Óc Eo, các di chỉ này được khai quật ở: Nền Chùa (1982-1983), nhiều di
chỉ mới khai quật thêm ở Óc Eo vào năm 1983, 1984,1993, Gò Tháp (1984,1993), Đá
Nổi (1985), Cây Gáo (1986-1987), Gò Rộc Chanh (1986); Đồng Bơ (1986 -1987), Lưu
Cừ (1986-1987), Bình Tả, thuộc quận Đức Hòa tỉnh Hậu Nghĩa (1987-1989), Gò
Thành (1988).
Các nhà khảo cổ học phương tây chia ra 6 thời kỳ để nghiên cứu về
khảo cổ học ở vùng đồng bằng sông Cửu Long như sau:
1. Thời kỳ tiền sử và sơ sử: từ nguyên thủy cho đến đầu Tây Lịch;
2. Thời kỳ Óc Eo: đầu Tây
Lịch đến thế kỷ VI-VII (tương ứng với vương quốc Phù Nam);
3. Thời kỳ tiền Angkor: thế kỷ
VI-VII cuối thế kỷ VIII;
4. Thời kỳ chuyển tiếp: đầu thế kỷ IX cuối thế kỷ IX (thời kỳ tiền Angkor và thời kỳ chuyển tiếp tương ứng với thời kỳ hậu
Óc Eo, thời hậu Óc Eo tương ứng với thời kỳ Thủy Chân Lạp);
5. Thời kỳ Angkor: cuối thế kỷ IV
giữa thế kỷ XV;
6. Thời kỳ hậu Angkor: giữa thế kỷ
XV trở về sau.
Về phương diện tín ngưỡng,
các di tích thuộc nền văn hóa Óc Eo chứng tỏ rằng Ấn Độ giáo và Phật giáo đã
được phổ biến và lưu hành trong dân gian ở xứ Phù Nam. Hai tôn giáo này được du
nhập vào đồng bằng sông Cửu Long vào thế kỷ thứ I của Tây Lịch.
* Về Ấn Độ giáo, người ta tìm thấy Linga bằng đá, biểu tượng của Siva-Bhadresvara,
Yoni bằng đá hoa cương, tượng thần Visnu to bằng người thật. Lại còn có bùa đeo
làm bằng đá quý, thủy tinh, hợp kim bằng thiếc có hình bò bứu, đinh ba (biểu
tượng của Siva) hình con ốc (biểu tượng của Visnu); người đeo bùa tin tưởng
rằng sức mạnh của các vị thần có thể che chở hay bảo vệ cho họ. Ta nhận thấy từ
xa xưa, con người đã có niềm tin vào ma thuật, tức là tin tưởng rằng các bùa
đeo có thể có ma lực tác động một cách có hiệu quả và trực tiếp vào ngoại cảnh.
Các nhà khảo cổ còn thấy tượng hình người đàn bà khỏa thân ngồi trong một tư
thế rất thoải mái, thường thường là một người đàn bà có bầu.
Người Phù Nam xưa tin tưởng rằng người đàn bà đang mang thai tượng
trưng cho một năng lực giúp cho sự sinh sôi nảy nở, đem lại sự phồn thịnh cho
việc làm ăn buôn bán và mang lại sự phì nhiêu cho đất đai để có thể gặt hái
được vụ mùa tốt.
Trong quyển “Sử Liệu Phù Nam”,
Lê Hương đã dịch một bản văn viết bằng Phạn ngữ tìm thấy trong di tích Gò Tháp
(ở Đồng Tháp Mười). Bản văn này đã được chép lại những nghi thức thờ thần Visnu
nhân dịp thái tử Gunavarman được sắc phong để trị vì ở vùng Đồng Tháp Mười hồi
thế kỷ thứ VI:
“Nhà vua đã cưới một người đàn bà đẹp có một dáng đi …và một thắt
lưng xinh xắn, sinh đứa con trai tên Gunavarman, tâm hồn cao thượng và trí
thông minh … Do nhà vua gặp vận may có dáng đi hùng dung của vị thần Vikramin
và chính là “Mặt Trăng” của dòng dõi tiền vương Kaundinya, vị thái tử này dù
còn nhỏ tuổi đã được chỉ định lãnh đạo một địa phương sùng đạo chinh
phục trên bùn lầy, nhờ ngài là người có đạo đức và phẩm hạnh.
Do thái tử Gunavarman … của bà mẹ ngài, đã đặt trên mặt đất một dấu
chân của thần Bhagavat, dấu chân mà cách trình bày với sắc thái không thể so
sánh được do ngài xây dựng, (ngài) không còn muốn hình ảnh nào khác trên đời
nữa.
Ngày thứ tám, dấu chân này cúng dâng chư thần do các tu sĩ Bà La
Môn, thông hiểu kinh Veda, kinh Upavada va kinh Vedanga, giống như những người
bất tử, đã nhận những huấn điều trong kinh điển Cruti, tuyên bố danh xưng trên
mặt đất là Crakratirthasvamin.
Mong rằng người sùng đạo đối với vị thần ngự tại địa điểm đã kính
dâng lên thần Sri Cakratirtha, điều thiện … của thái tử Gunavarman đạo đức,
hiếu thuận và nhân từ hoặc người nào chỉ đi vào (đến), sẽ đến nơi an nghĩ tối
cao của thần Visnu với tâm hồn hoan hỉ, giải thoát được nghiệp chướng xấu xa
của minh.
Người nào được Gunavarman là vị thái tử rất chuộng sự công bằng ký
thác cho thần Bhagavat phải tuân theo lệnh ngài, tùy theo sự sắp xếp của tất cả
tu sĩ Bhagavatas, những kẻ khốn khổ không được bảo vệ và những kẻ làm việc tại
nơi đây, chiếu theo luật định, kẻ nào làm trái ngược quy tắc sẽ sa xuống địa
ngục của diêm vương Yama cùng với những kẻ mang nặng trọng tội.
Mong rằng người có tâm hồn cao thượng sẽ làm khởi sắc những điều tốt
đẹp của thần Bhagavat … được đến nơi nghỉ tối cao của thần Visnu và đạt được
một thanh danh to tát, vui hưởng niềm hạnh phúc vô biên.”
Cũng trong quyển “Sử Liệu Phù Nam” này, Lê Hương còn dịch bản
minh văn “Neak Ta Dambang Dek (Takeo)
chép về việc lập tu viện thờ thần Visnu do hoàng hậu Kulaprabhavati, chánh cung
của vua Kaundinya-Jayavarman vào thế kỷ V:
“Cho người nặng lòng suy tưởng an giấc ngàn thu nơi lăng tẩm này
là vùng biển sữa, nằm trên giường đầy những rắn Sesa uống cong mình; chúc người
yên nghỉ nơi đây gồm ba thế giới trong lòng minh, người nằm đây có một đóa hoa
sen mọc từ cuốn rún*(“người nằm
đây có một đoá sen mọc từ cuốn” là thần
Visnu ), bảo vệ hoàng hậu, chánh cung của quốc vương Sri Jayavarman.
…nơi cư ngụ của tín đồ Bà La Môn giáo tại thành Kurumba … đã dựng
một tượng thần trang sức bằng vàng …với tâm tư trìu nặng vì những kết quả không
tốt của việc làm … dù có điều vui vẻ nhưng thiếu niềm hạnh phúc.
Nổi danh trên hoàn vũ như hoàng hậu,như chánh cung Saci của quốc
vương Sakra, Svaha, của thần lửa, Rudrami, của Hara và Sri của Sripati, rất
muốn được kết duyên với quốc vương Sri … đã nhiều phen nhận xét sự bất nhất của
nhà vua trên thế giới …
Rất thân mật với quốc vương Sri Jayavarman … đã nhận như là người
bạn của bà và hưởng nhiều hạnh phúc … đã ý thức rằng việc thụ hưởng nhiều lạc
thú chóng tàn như bọt nước … (bà xây cất) một tu viện có hồ nước có một tư
thất…”
Tại chùa Bửu Sơn, ở thị xã Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai hiện nay, có thờ
một tượng thần Visnu bốn tay bằng đá, ở trong một tư thế ngồi, lưng dựa vào một
phiến đá hình vòng cung đỉnh nhọn có khắc 9 dòng chữ Chiêm Thành cổ, các nhà
khảo cổ dự đoán tượng này được tạc khoảng thế kỷ thứ XIII.
* * Về Phật giáo, song song với sự phát triển của Ấn Độ Giáo, Phật Giáo cũng phát
triển vượt bực nhờ sự truyền bá đạo Phật từ Ấn Độ dưới thời vua Asoka (A-Dục
Vương). Nhiều tượng Phật bằng gỗ, đá và đồng đã tìm thấy ở nhiều nơi, các di
tích này thuộc thời đại văn hóa Óc Eo như ở Kiên Giang (Rạch Giá), Đồng Tháp
Mười, Hậu Giang, Vũng Tàu … Nhiều bia đá ở Chiêm Thành (Chân Lạp, Lâm Ấp) khắc
bằng chữ Phạn giảng về Phật Pháp cũng đã được tìm thấy. Các nhà khảo cổ tây
phương đã tìm thấy ở Mã Lai 2 tấm ngói lợp nhà trong một khu đã hoang phế có
khắc chữ Phạn, có lẽ trước đây là một căn phòng của một vị thiền sư, một trong
hai tấm ngói ấy có ghi lời giảng của kinh Phật về thuyết nhân quả, được dịch
như sau:
“Nhân quả là căn nguyên của sự luân hồi, khi người ta sáng suốt
thì luật nhân quả không tái sinh nữa, và nếu dứt được nhân quả thì không còn
tái sinh nữa (luân hồi).”
G.S. Mai Thọ Truyền, trong bài giảng “Lịch sử Phật Giáo Đông Nam Á”,khóa mùa xuân 1965, tại Viện Cao Đẳng
Phật Học Sài Gòn đã giảng rằng vào đầu thế kỷ VI, hai nhà sư Phù Nam là
Sanghapala (Tăng Già Bà La) và Mandra (Mạn Đà La) đã qua Trung Hoa và dịch kinh
Phật cho triều đình nhà Lương. Mandra đến kinh đô Trung Hoa vào năm 503; kể từ
năm 506 ngài cùng với Sanghapala cộng tác trong việc dịch thuật kinh điển nhà
Phật. Năm 546, triều đình nhà Lương đã yêu cầu vua Phù Nam gởi cao tăng đến
Trung Hoa, vua Phù Nam đã phái đại sư Paramartha qua thuyết giảng Phật Pháp ở
Trung Hoa.
Trước đó, vào năm 484, đặc sứ của xứ Phù Nam là đại sư Sakya
Nagasena (Sa-Kỳ-Na-Già-Tiên) tại triều đình nhà Nam Tề, đã dâng lên hoàng đế
Vĩnh Minh một tờ biểu có một đoạn dài nói về Phật, Bồ Tát, và những khái niệm
về Ba-la-Mật (Paramita), kiếp, nghiệp, luân hồi, tam bảo …
Tư tưởng Phật Giáo cũng đã được biên soạn để truyền bá, nhiều minh văn được thấy đã
ghi lại tư tưởng Phật Giáo bằng chữ Phạn. Lê Hương, trong quyển “ Sử Liệu Phù Nam” đã dịch bia Võ Canh (ở Khánh Hòa) do vị vua kế
nghiệp của Sri Mara lập ra vào khoảng cuối thế kỷ thứ III, có đoạn ghi:
“…lòng trắc ẩn đối với muôn loài …
Người thuộc giòng vua Sri Mara, người được danh dự cùng huyết thống
với (vua)Sri Mara đã tuyên bố giữa (buổi họp) những kẻ ấy, lời nói đầy hảo ý
đối với muông loài. Người là bậc ưu tú nhất của hai “Karin” khi ngự trên ngai
vàng. Người xem xét tình trạng bất an của thế gian mà rằng:
“Khi con trẫm và em trẫm cùng người nào khác được thỏa mãn ý muốn
chiếm tài sản làm của riêng …những gì (tạo thành) kho tàng của trẫm, bạc, vàng,
những vật hay dời đổi và bất động, tất cả món ấy, trẫm cúng hiến cho họ với
niềm vui sướng và sự lợi ích (cho muôn loài) …”
Tư tưởng thương xót muôn loài thể hiện triết lý đại từ đại bi của
Phật Giáo và quan niệm về lẽ vô thường của cuộc đời là nền tảng căn bản của
triết lý đạo Phật. Sự hy sinh của cải vật chất để giúp đỡ, bố thí cho người
nghèo khổ là thể hiện lòng từ bi của nhà Phật. Qua đoạn minh văn trên chứng tỏ
vị hoàng đế của xứ Phù Nam lúc ấy đã thấm thuần tư tưởng Phật Giáo.
Cũng trong quyển “Sử Liệu Phù Nam” Lê Hương đã dịch bia Ta Prohm ở Bati như sau:
“Vinh diệu thay cho kẻ chiến thắng được kẻ thù là tất cả sự đam
mê với những dấu vết của chúng (mầm móng, nghia34la2 sự đam mê trong trạng thái
ngủ say). Vinh diệu thay cho những kẻ đạt được trạng thái hoàn toàn trong mọi
việc mà lý trí không nhận chân những chướng ngại, hiểu được kinh Jina với lòng
từ bi và hướng vào hạnh phúc của người khác, mà điểm vinh quang vĩ đại và không
tì vết truyền bá trong khắp lãnh vực của không gian.
Sau khi cứu vớt được thế giới đắm chìm trong lòng đại dương của ba
điều kiện tạo dựng (ưa nhục dục, nhục thể, vô hình) và đạt tới Niết Bàn là vùng
đất cao nhất không thể thấy được, không thể so sánh được… đấng Tôn Sư ấy mà
những thành tích nhắm vào sự tạo hạnh phúc cho muôn loài, hiện nay vẫn còn ban
bố hạnh phúc cho kẻ khác.
Tất cả việc thiện của nhà vua rất mực trung thành với Phật pháp
(dharma) … mục đích thực hiện những ý định tốt của ngài đối với thế gian và không
phải (để thực hiện) những việc làm của tên Ksatrija trái ngược với ý ngài.
Đức Thích Ca, đức Dharma, đức Sangha, mỗi vị với tất cả đức tốt, ưu
tú … người thực hiên mọi hành vi của một Upasaka, không bị sa ngã…”
Si mê là một mầm móng của tam độc: Tham, Sân, Si. Tam bảo: Phật,
Pháp, Tăng, Niết Bàn, điều thiện và cách hành trì để khỏi sa ngã đều được giảng
dạy. Các điều này đã chứng tỏ các nhà sư Phù Nam đã có một kiến thức về tư tưởng
Phật Giáo thật là uyên thâm để đi thuyết pháp và hoằng dương chánh pháp của nhà
Phật.
Qua các sử liệu nêu trên chúng ta có thể kết luận rằng Phật Giáo đã được truyền bá qua Trung Hoa,
xuyên qua ngã Phù Nam,
vào cuối thế kỷ VI. Như vậy Phật Giáo đã được thuyết giảng ở Trung Hoa,
triết lý Phật Giáo đã hấp dẫn các đại sư Huyền Trang (629), Nghĩa Tịnh (671) và
đã là trợ duyên cho các ngài trong việc quyết định đi qua Ấn Độ để nghiên cứu
Phật Pháp và thỉnh các kinh điển nhà Phật.
Người ta đã tìm thấy một pho tượng Phật bằng đá lớn và nhiều tượng
nhỏ ở núi lớn gần Gành Rái có đặc tính của thời hậu Óc Eo. Tượng Phật này đang
được thờ phượng ở trong một ngôi chùa ở xã Thắng Tam thuộc thị xã Vũng Tàu.
Trong bài này chúng tôi đã không trình bày chi tiết về đời sống kinh
tế, phong tục, tập quán … của các cư dân của vương quốc Phù Nam vào thời đại Óc Eo. Chúng tôi
chỉ trình bày một số nét chính về Ấn Độ Giáo và Phật Giáo mà thôi.
Các nước Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng là thiên đàng của các nhà khảo cổ, vì nơi đây có nhiều cổ vật, nhiều di
tích đã, đang và sẽ được khai quật nên các nhà khảo cổ có cơ hội để khám phá và
thực hiện khả năng của mình trong việc giải thích và phác họa đời sống tinh
thần và vật chất của các cư dân sống vào một thời kỳ xa xưa trong lịch sử Đông
Nam Á.
Viết lần thứ nhất tại Toronto,
ngày 26 tháng 12 năm 2004.
Bản có sửa chửa và bổ túc
thêm, tháng 12 năm 2013.
Nguyễn Vĩnh Thượng
Tài
liệu tham khảo chính yếu:
Bùi Văn Liêm: Vài nét về Đồng Tháp Mười, Đặc san Tiền
Giang – Hậu Giang số 7, California,
2003, tr.314-316
Đại Nam Nhất Thống Chí: Lục tỉnh Nam Việt, tập hạ, dịch giả Tu Trai Nguyễn Tạo, Nhà Văn
Hóa Giáo Dục, Bộ Giáo Dục, Sài Gòn, 1959
Huỳnh Minh: Sa Đéc xưa, Sài Gòn, 1970
Hall, D.G.E.: Đông Nam
Á sử lược, Nguyễn Phúc Tấn dịch, Khai Trí, Sài Gòn,
1968
Lê Hương: Những người Việt tiên phong
trên bước đường Nam
tiến tại Cao Lãnh, Sài Gòn, 1970
Châu Lạc Quan: Chân Lạp phong thổ ký, dịch giả Lê
Hương, Kỷ nguyên mới, Sài Gòn, 1973
Lê Hương: Người Việt gốc Miên, do Đại Nam
in lại, Califonia, 1980
Lê Hương: Angkor, Đế Thiên, Đế Thích, do Đại Nam
in lại, Califonia, 1980
Lê Hương: Chợ trời biên giới Việt Nam – Cao Miên (Giải thưởng phóng sự năm 1969) in lại ở Mỹ
Mạng Internet của các
tác giả Việt Nam
và các cựu quân nhân Mỹ đã từng phục vụ tại các căn cứ Cao Lãnh
Mai Thọ Truyền: bài giảng “Lịch Sử Phật Giáo Đông Nam Á”,
Viện cao đẳng Phật Học Sài Gòn, khóa mùa xuân 1965, in Ronéo.
Nguyễn Thanh Liêm: “Những biến đổi trong văn hóa Việt Nam”, Califonia: tập san nghiên
cứu văn hóa Đồng Nai – Cửu Long, số 1, 2004, tr. 9-20
Nguyễn Văn Xuân: Khi những người lưu dân trở lại, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1967
Phan Khoang: Việt sử: xứ đàng trong, Khai Trí, Sài Gòn, 1967
Sơn Nam: Tìm hiểu đất Hậu Giang,
Phù Sa, Sài Gòn, 1959
Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Xuân
Thu in lại, Califonia, 1979
Trần Quang Hạo: Cao Lãnh Đến 1954, Cao Lãnh, tháng 4 năm 1963
Trần Quang Hạo: Cao Lãnh Đến 1954, Cao Lãnh, tháng 4 năm 1963
Trần Trọng Kim: Việt Nam
sử lược, Tân Việt, Sài Gòn, 1958
Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thống chí, Nguyễn Tạo dịch, Bộ Văn Hóa Giáo Dục, Sài
Gòn, 1972