Giữa không khí nóng bỏng của thời
cuộc những năm 1966-68, thế hệ “tuổi hai mươi” của một số anh chị em chúng tôi
lúc bấy giờ còn may mắn được ngồi trên ghế nhà trường: Khoa Triết Đại học Văn
khoa Sài Gòn. Ở đó, những đầu óc măng tơ được êm đềm “dẫn vào Triết học”, được
khuyến khích “nhập môn” (chứ chưa dám nói đến “nhập thất”) vào một thế giới lạ
lùng, bí hiểm nhưng cũng đầy quyến rũ gợi lên bao “thao thức”, “trăn trở”, “suy
tư” của tuổi trẻ. Và nhất là, lại được “dẫn vào”, được “nhập môn” bằng chính
những bàn tay êm ái của nhiều vị Thầy khả kính với các phong cách khác nhau.
Muốn tìm “lối vào” triết Đông ư ? Chúng tôi có Thầy Nguyễn Đăng Thục uyên bác
và bừng bừng tâm huyết (trong một giờ học, Thầy chỉ mạnh tay vào một quyển sách
chữ Hán – hình như là quyển “Đạo giáo nguyên lưu” - rồi gằng giọng hỏi: “thế hệ
chúng tôi mất rồi, ai trong các anh chị còn đọc được những quyển sách này ?”);
có Thầy Kim Định bay bổng, Thầy Nguyễn Duy Cần cặm cụi, Thầy Lê Xuân Khoa hào
hoa... Còn triết Tây ? Chúng tôi có Thầy Nguyễn Văn Trung (những vấn đề cơ bản,
Marx), Thầy Lý Chánh Trung (đạo đức học), Thầy Lê Thành Trị (Husserl,
Sartre...)... Nhưng, “sợ” nhất vẫn là Thầy Nguyễn Văn Kiết ! Thầy nổi tiếng
nghiêm khắc, lại dạy rất khó.
Bốn tác giả lớn nhất và khó nhất của
triết học cổ điển Đức (Kant, Fichte, Schelling, Hegel) được Thầy dồn lại trong
một “cours” (giáo trình) chỉ ngót trăm trang, đọc muốn vỡ đầu mà chỉ có thể
hiểu được lỏm bỏm. Mà nào phải chỉ cần đọc để tìm hiểu thôi đâu, còn “phải học”
để đi thi nữa chứ; thi hỏng thì... “Thủ Đức” đang chờ sẵn ! (Chắc vì biết thế
nên Thầy Lý Chánh Trung ít khi nào “nỡ” đánh hỏng chúng tôi ! Tệ lắm thì được
nghe Thầy nhắc nhẹ: “Anh có đi nghe cours tôi không ?” rồi cho 10 điểm trung
bình !). Cho đến một hôm, khi đang giảng về Fichte với các bài “Diễn văn cho
dân tộc Đức” nổi tiếng hùng hồn trước cuộc tấn công của Napoleon, Thầy Kiết
nhìn chúng tôi và trầm ngâm: “Tình hình hiện nay, ai sẽ là người đọc “Diễn văn
cho dân tộc Việt” ? Câu hỏi ngắn nhưng gây chấn động tâm tư, vì đến từ một người
Thầy tưởng như không hề quan tâm đến thế sự! Chúng tôi càng bất ngờ nhưng rồi
cũng hiểu được tại sao sau Tết Mậu Thân 68, Thầy, lúc ấy đã lớn tuổi và sức
khỏe yếu nhiều, đã lặng lẽ chia tay chúng tôi vào tham gia kháng chiến(1). Tôi
không hiểu hết những lời Thầy dạy về Kant... (dù nhờ ơn Thầy mà lần đầu tiên
được nghe những từ đầy “mê hoặc”: siêu nghiệm, võng luận, Antinomie...), nhưng
Thầy đã ghi đậm lên tim tôi cái lẽ phải thông thường chẳng cần “triết lý “ cao
xa: “quốc gia hưng vong...”. Công ơn Thầy lớn quá!
Thầy Lê Thành Trị một hôm cầm quyển
“Phê phán Lý tính thuần túy” (bản dịch tiếng Pháp) dày cộm, nâng cao lên cho
chúng tôi thấy, rồi nói: “Các Ông các Cô” [Thầy luôn cố ý gọi chúng tôi như thế
để tỏ lòng tôn trọng sinh viên trong “môi trường” đại học] học Triết học chuyên
nghiệp thì phải đọc hết quyển này !”. Nghe lời Thầy, tôi tìm đến “Thư viện quốc
gia” ở đường Gia Long (bây giờ là “Thư viện Khoa học xã hội” ở đường Lý Tự
Trọng) rón rén mượn quyển sách... xem thử. Bác thủ thư nhận thẻ, ngước nhìn tôi
bằng cặp mắt nghi ngờ, nhưng rồi cũng chịu khó xuống kho lục tìm. Ngót 15 phút
sau, tôi mới được cầm trên tay quyển sách nặng trịch, bám bụi, trịnh trọng tìm
một góc ngồi thật êm ái ở hành lang cổ kính, rồi dỡ ra... đọc. Lật tới lật lui
năm bảy lần, thử ráng đọc vài đoạn mới biết sức mình có hạn, trong khi ngoài
cửa sổ kia, hàng me xanh quá, và chiều Sài Gòn thơ mộng quá ! Cố ngồi náng thêm
nửa tiếng đồng hồ mới dám... rón rén mang trả chỉ vì sợ gặp lại ánh mắt của bác
thủ thư! May sao, chẳng biết nhờ đâu, tôi tìm đọc được bài giảng của Thầy Trần
Thái Đỉnh – hình như là bài giảng của Thầy ở Đại chủng viện Xuân Bích -, sau
này được in và công bố (“Triết học Kant”, NXB Văn Mới, 1974). Tôi không may mắn
được Thầy trực tiếp dạy về Kant. Ở “Văn khoa”, chúng tôi chỉ được nghe Thầy
giảng về triết học hiện đại, và cũng là lần đầu tiên được nghe Thầy giới thiệu
về thuyết cấu trúc (bấy giờ gọi là “Cơ cấu luận”) mà nay chỉ còn nhớ được đôi
câu trích dẫn đầy “ấn tượng”: “Chúng ta không nói mà bị nói; không làm mà bị
làm” v.v.. của những F. Saussure, C.L.Strauss... mới toanh ! Nhờ Thầy, chúng
tôi được biết ít nhiều về triết học hiện đại, nhưng với riêng tôi, bài giảng về
Kant của Thầy nói trên thật đã “cứu nguy” đúng lúc để giúp tôi phần nào hiểu
được “cours” hóc búa của Thầy Nguyễn văn Kiết và nhất là khóa giảng rất khó và
rất sâu của Thầy Lê Tôn Nghiêm về quyển “Kant và vấn đề Siêu hình học” của M.
Heidegger. Không hiểu Kant, làm sao hiểu nỗi M. Heidegger bàn gì về Kant ! Từ
đó và mãi đến hôm nay, quyển “Triết học Kant” của Thầy Trần Thái Đỉnh (cùng với
hai bản dịch rất quý của Thầy về Descartes: “Luận văn về phương pháp”/“Discours
de la methode” và “Những suy niệm Siêu hình học”/“Meditations métaphysique”,
1962) và quyển “Kant và vấn đề Siêu hình học” của Thầy Lê Tôn Nghiêm luôn theo
sát bên tôi không chỉ như kỷ vật đáng nâng niu của một thuở hoa niên mà còn như
hai vị Thầy lặng lẽ, lúc nào cũng ở bên cạnh mình để sẳn sàng chỉ dạy mỗi khi
cần ôn lại một định nghĩa, tìm cách dịch một thuật ngữ nào đó. Gần đây, khi
dịch và chú giải quyển “Phê phán Lý tính thuần túy” của Kant (NXB Văn học 2004)
(ôi, quyển sách đầy kỷ niệm trong tay Thầy Lê Thành Trị thuở nào !), tôi đã
trộm phép Thầy Trần Thái Đỉnh để sử dụng lại một số thuật ngữ tiếng Việt quan
trọng được Thầy dùng để dịch Kant mà đến nay tôi vẫn chưa tìm thấy cách dịch
nào tốt hơn: “niệm thức” (Schema), “Ý thể” (das Ideal), “Phân tích pháp”
(Analytik) v.v.., để chỉ xin đơn cử một hai ví dụ.