Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót,
chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa sai và
bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp bài
viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh
cho chúng tôi.
NVT
NVT
Trong bài viết này chúng tôi sẽ trình bày:
I.-Định nghĩa Vũ trụ luận.
II.- Vũ trụ luận trong tư tưởng Phật giáo.
III.- Ảnh hưởng của vũ trụ luận Phật giáo đối với đời sống xã hội hằng ngày.
II.- Vũ trụ luận trong tư tưởng Phật giáo.
III.- Ảnh hưởng của vũ trụ luận Phật giáo đối với đời sống xã hội hằng ngày.
I.- Định nghĩa vũ trụ luận:
Trong bài “Phật giáo như là một triết học hay như là một tôn giáo”, chúng tôi đã định nghĩa về các cụm từ: siêu hình học, vũ trụ luận và bản thể luận. Nay tôi xin ghi lại các định nghĩa này trước khi tìm hiểu Vũ trụ luận của Phật giáo (Buddhist cosmology):
Trong bài “Phật giáo như là một triết học hay như là một tôn giáo”, chúng tôi đã định nghĩa về các cụm từ: siêu hình học, vũ trụ luận và bản thể luận. Nay tôi xin ghi lại các định nghĩa này trước khi tìm hiểu Vũ trụ luận của Phật giáo (Buddhist cosmology):
Siêu hình học ( Metaphysics) là tiếng có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ
xưa là meta-physica (meta= bên kia, physica= vật lý, vật hữu hình). Siêu hình học
có mục đích khảo sát bản chất căn bản của sự hiện hữu, của sự tồn tại (being).
Siêu hình học là một trong những tác phẩm triết học của Aristotle (Hy lạp, 384
tr.C.N). Siêu hình học gồm có hai ngành chính là:
1.-Vũ trụ
luận (Cosmology) là tiếng có
nguồn gốc từ Hy lạp là Kosmos = thế giới, logia= nghiên cứu về. Vũ trụ luận là
khoa nghiên cứu về thế giới, vũ trụ để tìm hiểu nguồn gốc, sự tiến hoá, thay đổi
trải qua nhiều thế hệ, và số phận của vũ trụ. Việc khảo cứu về vũ trụ đã có một
lịch sử lâu dài liên quan đến khoa học, triết học, thuyết bí truyền của một
nhóm người, và của một tôn giáo. Vũ trụ luận nghiên cứu các vấn đề chính yếu
sau đây: - Vũ trụ vạn vật phát sinh từ đâu?.-Tính chất của vũ trụ vạn vật như
thế nào: tĩnh hay động, thường hằng hay vô thường, luôn luôn chuyển biến. Vũ trụ
vạn vật có khởi thuỷ, có chấm dứt không?- và đưa ra giả thuyết về địa vị của
con người ở trong vũ trụ.
2.-Bản thể luận ( Ontology) là tiếng có nguồn gốc từ Hy Lạp là ontos = sự hiện hữu, sự tồn tại (being); logia = nghiên cứu về. Bản thể luận là khoa nghiên cứu về sự hiện hữu (the study of being), về hữu thể (existence).
Bản thể luận khảo sát sự hiện hữu như là chính nó đang hiện hữu, tức là bản tính của hữu thể (the nature of existence), thực thể hiện hữu có thể chia ra thành các nhóm được gọi là các “phạm trù” của hữu thể (the categories of existence) và những điều liên hệ.
2.-Bản thể luận ( Ontology) là tiếng có nguồn gốc từ Hy Lạp là ontos = sự hiện hữu, sự tồn tại (being); logia = nghiên cứu về. Bản thể luận là khoa nghiên cứu về sự hiện hữu (the study of being), về hữu thể (existence).
Bản thể luận khảo sát sự hiện hữu như là chính nó đang hiện hữu, tức là bản tính của hữu thể (the nature of existence), thực thể hiện hữu có thể chia ra thành các nhóm được gọi là các “phạm trù” của hữu thể (the categories of existence) và những điều liên hệ.
Để hiểu rõ, chúng ta liệt kê các
câu hỏi, các chất vấn mà Bản thể luận có thể đặt ra khi khảo sát về sự hiện hữu,
về hữu thể như:
-Cái gì là nguyên lý cơ bản ẩn tàng trong sự hiện hữu?
-Cái gì khác nhau giữa thực tại chân thật (really existing) và chỉ là sự biểu hiện để hiện hữu (only appearing to exist)?
-Thế giới bên ngoài có thực sự hiện hữu không?
-Tha nhân có thật sự hiện hữu không?
-Thượng đế (God) có thật sự hiện hữu không?
-Tôi hiện hữu như thế nào? hay Tôi từ đâu đến và tôi sẽ đi về đâu? hoặc Vì mục đích gì mà Tôi hiện hữu ở đây?
-Cái gì là nguyên lý cơ bản ẩn tàng trong sự hiện hữu?
-Cái gì khác nhau giữa thực tại chân thật (really existing) và chỉ là sự biểu hiện để hiện hữu (only appearing to exist)?
-Thế giới bên ngoài có thực sự hiện hữu không?
-Tha nhân có thật sự hiện hữu không?
-Thượng đế (God) có thật sự hiện hữu không?
-Tôi hiện hữu như thế nào? hay Tôi từ đâu đến và tôi sẽ đi về đâu? hoặc Vì mục đích gì mà Tôi hiện hữu ở đây?
Như vậy trong tư tưởng Tây phương,
Bản thể luận chỉ nghiên cứu về hữu thể
(existence) và đã đánh giá tích cực cho hữu thể, dĩ nhiên đã có nhận định tiêu
cực cho vô thể (non-existence). Trong
tư tưởng Đông phương thì “vô thể/ phi hiện
hữu” (non-existing) là nền tảng cơ bản của Bản thể luận; như quan niệm Vô (non-being) của Lão giáo, và quan niệm
Tánh không (Srt. Sunyata, Emptiness)
của Long Thọ / Nagarjuna (khoảng 150 - khoảng 250 CN).
II.-Vũ trụ luận Phật
giáo:
Đức Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni đã giữ im lặng trước những câu
hỏi về sự hiện hữu của Thượng đế hay Đấng sáng tạo. Ngài không bao giờ trả lời
các câu hỏi của đệ tử về nguồn gốc của vũ trụ, về Đấng sáng tạo ra vũ trụ. Ngài
đã phủ nhận bất cứ nguyên nhân đầu tiên nào hay là nguyên nhân của các nguyên
nhân như là cội nguồn của tất cả những vật được tạo thành. Theo Đức Phật, tất cả
những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ
vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
Ngài nhấn mạnh rằng tất cả mọi vật hiện hữu trong tất cả thế giới thì thay đổi
không ngừng. Tất cả mọi vật đều biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái
khác. Sự hiện hữu của mọi vật là một chuổi điều kiện để biến thành vật khác, sự
biến chuyển này theo định luật vô thường.
Do đó, Đức Phật đã giảng dạy về “Duyên Khởi”
hay “12 nhân duyên” nối kết nhau
thành một chuỗi vòng tròn.
(Xem thêm bài Duyên Khởi của NVT)
(Xem thêm bài Duyên Khởi của NVT)
Đức Phật lịch
sử đã không chấp nhận một Đấng Sáng Tạo ra vũ trụ, tức là Ngài không muốn bàn đến
Vũ trụ luận là một bộ môn của Siêu hình học.
Thật vậy,
Đức Phật chỉ giảng dạy những điều gì mà Ngài gọi là Pháp (Dharma), là chân lý của
sự hiện hữu (the truth existence). Chính bản thân Đức Phật lịch sử đã không thực hành Phật giáo (Buddhism)
như ngày nay các vị Phật tử thực hành. Các đệ tử của Ngài, các vị thừa kế của Ngài
đã quảng diễn, phân loại và làm đa dạng hoá các lời giảng dạy của Đức Phật lịch
sử. Họ đã tạo nên những trường phái Phật giáo khác nhau, với những truyền thống
khác nhau để giải thích các bài thuyết pháp mà chính Đức Phật có lẽ đã không dự
đoán trong khi Ngài còn tại thế.
Đến thế
kỷ thứ 3 trước Công Nguyên (3rd Century B.CE), Đại đế Asoka đã tổ chức
Phật giáo như là một tôn giáo. Vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên (1st
Century CE) thì truyền thống Phật giáo Đại thừa/Phật giáo Phát triển (Mahayana
Buddhism/ Developmental Buddhism) bắt đầu phát sanh. Từ đó, Phật giáo Phát triển
đã cố gắng giảng giải sự hình thành của vũ trụ và cuộc sống của con người. Như đã
biết, Phật giáo đã triển khai lý thuyết về luân hồi (Samsara), thuyết này được
cải tiến theo thời gian để giải thích sự hiện hữu của thế tục qua vòng sanh-tử
không ngừng của sanh (birth), tử (death), tái sanh (re-birth), tái tử
(re-death) trong một vũ trụ có 3 thế giới
/ tam giới (Srt. Tri-Loka/ Trai-Lokya/ Trai-Dhatuka; Pa. Ti-Loka; Av. Three
regions/ Three Realms/Three Regions/ Three Spheres). Trước đó, Ấn độ giáo
(Hinduism) cũng đã quan niệm về 3 thế giới gồm có: 1. Trời/ Thiên đàng (Srt. Swarga –Lok, Av. Sky/ Heaven); 2.Mặt đất/
nơi chúng ta đang sống (Srt. Martya –Lok, Av. The Earth); 3. Địa ngục
(Srt. Narka – Lok, Av. The Hell) được coi là nơi
ở dưới mặt đất.
Trong các kinh văn của Phật giáo Nguyên thuỷ (Early Buddhism Texts) đã trình bày quan niệm về 3 thế giới ở trong vũ trụ. 3 thế giới là những nơi đến cho các chúng sanh theo nghiệp lực tái sanh (Karmic rebirth). Đó là:
1.-Dục giới (Srt. Kama-Loka/ Kamadhatu, Av. the word of Desire/ the Realm of Desire).
2.-Sắc giới (Srt. Rupa-Loka/ Rupa-Dhatu, Av. The world of Form/ The Realm of Form).
3.-Vô Sắc giới (Srt. Arupa-Loka/Arupa-Dhatu, Av. The world of No-Form(Form-less-ness)/ The Realm of No-form/ The abstract world).
2.-Sắc giới (Srt. Rupa-Loka/ Rupa-Dhatu, Av. The world of Form/ The Realm of Form).
3.-Vô Sắc giới (Srt. Arupa-Loka/Arupa-Dhatu, Av. The world of No-Form(Form-less-ness)/ The Realm of No-form/ The abstract world).
Sau đây chúng ta sẽ duyệt qua các điểm chính của ba thế giới vừa nêu trên:
1.-Dục giới là thế giới mà chúng
ta đang sống. Đây là thế giới của chúng sanh còn có những ham muốn về giới tính
và về ăn uống (sex and food). Trong cảnh giới này chúng sanh còn ưa muốn về 5 dục:
sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục và xúc dục.
Theo truyền thống của Phật giáo lúc sơ khai (Early Buddhist tradition) thì Dục giới có 5 loại trong bánh xe sinh tử là: 1.Cõi địa ngục, 2. Cõi Ngạ quỷ/quỷ đói, 3.Cõi súc sanh/ loài thú, 4.Cõi người, 5. Cõi trời. Rồi theo sự tiến triển, truyền thống Phật giáo về sau (later Buddhist tradition) đã thêm vô “Cõi thần”. Ngày nay, Phật giáo vẫn còn giữ quan niệm: có 6 loại trong Dục giới (6 Categories/ six sub-Realms), người Trung Hoa gọi là lục đạo (six ways):
1.1.-Cõi Địa ngục (Srt. Niraya, Av. The Hell Realm) là nơi chúng sanh bị đày đọa.
1.2.-Cõi Ngạ quỷ/ Cõi quỷ đói (Srt.Preta, Av. The Realm of Hungry Ghosts) là nơi có những chúng sanh bị bỏ đói như một hình phạt vì các tội lỗi đã làm.
1.2.-Cõi Ngạ quỷ/ Cõi quỷ đói (Srt.Preta, Av. The Realm of Hungry Ghosts) là nơi có những chúng sanh bị bỏ đói như một hình phạt vì các tội lỗi đã làm.
1.3.- Cõi Súc sanh/ Cõi loài thú (Srt. Pasu, Av. The realm of Animals) là nơi chúng sanh là những động vật.
1.4. Cõi Người/ Cõi Nhân thế (Srt. Nara, Av. The realm of Humans) là nơi con người đang sanh sống. Đây là thế giới tốt để giúp con người tạo nên nghiệp nhân tốt để thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Nếu chúng sanh tạo nghiệp nhân xấu thì bị sa đọa vào cõi thấp kém hơn.
1.5.-Cõi Thần/ Cõi A-tu-la (Srt. Asura, Av. The Realm of Angels/ The Realm of lower Gods).
1.6.- Cõi Trời/ Cõi Thiên (Srt. Deva, Av.The realm of Gods): đây là nơi mà các Trời, các Tiên sống, các vị vừa hưởng được phước lạc vừa trông nom các chúng sanh ở 5 cõi kia. Các Thiên, các Tiên có quyền lực che chở cho người hiền đức khỏi bị bọn hung thần khuấy phá.
1.4. Cõi Người/ Cõi Nhân thế (Srt. Nara, Av. The realm of Humans) là nơi con người đang sanh sống. Đây là thế giới tốt để giúp con người tạo nên nghiệp nhân tốt để thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Nếu chúng sanh tạo nghiệp nhân xấu thì bị sa đọa vào cõi thấp kém hơn.
1.5.-Cõi Thần/ Cõi A-tu-la (Srt. Asura, Av. The Realm of Angels/ The Realm of lower Gods).
1.6.- Cõi Trời/ Cõi Thiên (Srt. Deva, Av.The realm of Gods): đây là nơi mà các Trời, các Tiên sống, các vị vừa hưởng được phước lạc vừa trông nom các chúng sanh ở 5 cõi kia. Các Thiên, các Tiên có quyền lực che chở cho người hiền đức khỏi bị bọn hung thần khuấy phá.
Việc tái sanh (re-birth) xảy
ra không ngừng, tức là không có chúng sanh nào ở một cõi vĩnh viễn. Chúng sanh
có thể tái sanh từ cõi này sang cõi khác là tuỳ thuộc vào nghiệp báo
(volitional action), vào chủ ý và hành động (intentions/ wills, and actions). Nếu
chúng sanh tạo nghiệp nhân tốt thì có thể chuyển đổi qua một cõi tốt hơn, và
ngược lại.
2.-Sắc giới: đây là thế giới
của các thiên, các tiên. Họ không còn những ham muốn về dục tính, không còn muốn
ăn. Song vẫn còn hình thể và nhận thức (forms and perceptions). Chúng sanh đang
ở cõi Dục giới có thể tu tập thiền định
để có thể tái sanh vào cõi Sắc giới.
Các Thiên, các Tiên có thể tu tập thiền định để đắc quả từ sơ thiền (1st
Jhana), Nhị thiền (2nd Jhana), Tam thiền (3rd Jhana) và Tứ
thiền (4th Jhana).
3.-Vô Sắc giới: đây là thế giới
cao nhất trong vũ trụ, đây là một thế giới thuần tuý tâm linh (pure spirit/
pure awareness) nơi đây các Thiên xa lìa những ham muốn, tránh khỏi những hình
sắc, nói cách khác đây là một thế giới không có hình thể và lòng ham muốn dục tính
và ham muốn thực phẩm. Các vị Thiên, các vị Tiên ở đây đã đạt được thiền định
cao thâm. Có bốn thế giới thiền (four Jhana worlds) tương ứng với 4 tình trạng
thiền định Vô Sắc giới:
1.-Xứ không vô biên (The world of infinite
space).
2.-Xứ thức vô biên (The world of infinite consciousness).
3.-Xứ vô sở hữu (The world of emptiness/ nothingness).
2.-Xứ thức vô biên (The world of infinite consciousness).
3.-Xứ vô sở hữu (The world of emptiness/ nothingness).
4.-Xứ phi tưởng phi phi tưởng (The world of
neither perception nor non perception).
Chúng sanh ở
trong 3 thế giới trên vẫn còn ở trong vòng sinh tử. Bởi vì Niết-bàn (Nirvana)
không phải là một trạng thái của thiền định, Niết-bàn là một trạng thái giải
thoát khỏi những điều kiện, những cấu tạo của hiện hữu (all conditioned and
constructed existence).
Tóm lại, chúng
sanh vẫn lang thang trôi nỗi (wandering) từ kiếp này đến kiếp sống khác (life
after life), từ thế giới này đến thế giới khác trong vòng sanh tử luân hồi cho
đến khi chúng sanh ngộ được Niết-bàn thì chúng sanh mới thoát khỏi vòng sanh tử
luân hồi.
Quan niệm
về 3 thế giới ở trong vũ trụ là vũ trụ luận của Phật giáo Đại thừa hay Phật giáo
Phát triển.
III.-Ảnh hưởng của vũ trụ
luận Phật giáo đối với đời sống hằng ngày:
Chúng ta nhận thấy
quan niệm vũ trụ luận của Phật giáo Phát triển có những ảnh hưởng đối với đời sống
xã hội hằng ngày như sau:
1.- Cái
nhìn mở rộng về 3 thế giới trong vũ trụ vạn hữu có thể khuyến khích mọi người
phát triển các hành vi đạo đức của mình cho tốt đẹp hơn, giúp chúng ta hướng
thiện để có thể tái sanh đến một thế giới tốt đẹp hơn. Chúng ta hiểu rằng con
người và sinh vật không phải là những chúng sanh duy nhất sống trong vũ trụ.
Quan niệm về thế giới ngạ quỷ, thế giới thiên, thế giới thần không thể chứng
minh bởi khoa học, nhưng chúng ta có thể cảm nghiệm được qua các nghi lễ tôn giáo
hay bởi những suy niệm siêu hình. Đôi khi trong thế giới thực nghiệm, không cần
đến các nghi lễ tôn giáo, đã có một số người có thể cảm nhận sức mạnh linh thiêng
của Trời, Phật, của Bồ-tát Quán thế âm và họ có thể cảm thấy sự xuất hiện của các
vị này. Hơn nữa, sự hiểu biết về sự hiện hữu của vô số thế giới giúp con người
không nên chỉ nghĩ về thế giới mình đang sống mà thôi, tức là trái đất này.
2.-Quan niệm cho rằng vũ trụ này gồm có nhiều thế giới với nhiều
tầng khác nhau giúp con người ý thức rằng các nghiệp hay hành động có ý thức của
mỗi chúng sanh có thể xác định được tương lai của họ. Theo đạo đức học Phật
giáo nếu một người thực hiện và giữ gìn 5 giới cấm như: không sát sanh, không
trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không rượu chè trác táng; và giúp đở, bố
thí người nghèo khó, hoạn nạn thì đã tạo được nghiệp nhân tốt, khi tái sanh có
đến thế giới tốt hơn cõi người. Trái lại, nếu chúng sanh có những nghiệp nhân xấu
như cướp của, giết người, hảm hại người khác v…v..., và không ăn năn, hối cải thì họ
sẽ tái sanh vào cõi địa ngục, cõi ngạ quỹ, cõi súc vật. Học thuyết về vũ trụ có nhiều thế giới đã làm
sáng tỏ nguyên lý về nhân và quả trong học thuyết về “Duyên khởi hay Thập nhị nhân
duyên” của Phật giáo. Nguyên lý nhân
quả giúp con người ý thức và hướng dẫn các hành động/nghiệp của mình để tạo nên
các nghiệp nhân tốt, và do đó sẽ sanh ra các nghiệp quả tốt. Nếu xã hội này có
nhiều người có hành động tốt thì thế giới này chắc không có chiến tranh, xã hội
sẽ không có người đấu đá người, cảnh giựt giọc, cảnh có những kẻ hạ những thủ
đoạn độc ác v…v…Nói thêm, việc phổ biến vũ trụ luận Phật giáo sẽ giúp cho đời sống
xã hội sẽ bớt rối loạn, bớt xáo trộn hơn, tuy nhiên việc này đòi hỏi nhiều thời
gian, không thể đạt được trong một sớm một chiều.
3.-Cõi trời hay
Thiên đàng với đời sống thanh thản của chư Thiên, chư Tiên là những hấp dẫn cho
con người và gây niềm hy vọng cho nhiều người. Trong đời sống thực tế, con người
gặp nhiều điều bất như ý, nhiều điều khổ nạn gây bởi bạn bè, anh em, vợ chồng,
đồng nghiệp v…v… và những thiên tai gây ra. Mặc dầu cuộc cách mạng của kỷ thuật,
những phát minh mới về các thuốc trị liệu nhiều chứng bịnh ngặt nghèo đã giúp sự
phát triển đời sống vật chất và tinh thần, làm diụ bớt những đau đớn về thể xác
và tinh thần, nhưng con người vẫn còn cảm thấy nhiều điều bất an. Quan niệm vũ
trụ luận của Phật giáo có thể giúp người ta bình an về tinh thần nhờ ở niềm tin
rằng người ta có thể vượt khỏi đời sống ở trái đất này để đi vào cõi thiên/
thiên đàng khi con người chết một khi con người đã tạo được nghiệp nhân tốt.
4.-Ba thế giới
trong vũ trụ vẫn còn trong vòng sinh tử luân hồi, tức là chúng sanh sống trong
các thế giới này cũng có sự thay đổi vô thường. Thật vậy, mặc dầu cõi thiên có
rất nhiều hạnh phúc và bình an hơn, nhưng chư Thiên sanh sống trong cõi Trời
cũng không phải là không có thay đổi. Chư Thiên có thể có đời sống dài hơn chư
nhưng Chư Thiên là những chúng sanh cũng phải chết, chư Thiên có thể tái sanh ở
một cõi thấp hơn nếu chư Thiên có những hành động có chủ ý sai trái. Ba thế giới:
Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới
là những gì biến đổi vô thường, chúng sanh cần phải vượt ra khỏi 3 thế giới
này. Con người cần phải để ra nhiều thì giờ để thực nghiệm tâm linh và đạt được
cứu cánh Niết-bàn để giải thoát khỏi sự tái sanh vào 3 thế giới vô thường này nữa.
Toronto, 09 August 2018
Nguyễn Vĩnh Thượng
Tái liệu tham khảo
chính yếu:
Như đã liệt kê ở các bài
viết trước.