NVT
Trong bài viết này, tôi sẽ trình bày:
Phần thứ nhất: Giác ngộI. Định nghĩa: Giác ngộ.
II.-Đức Phật lịch sử là bậc giác ngộ.
III.-Giác ngộ theo quan niệm của các tông phái Phật giáo.
Phấn thứ hai: Niết-bàn.
Phần
thứ nhất: Giác Ngộ
Giác
(覺) có nghĩa là hiểu ra, phát hiện, cảm nhận.
Ngộ (悟)có nghĩa là hiểu thấu đáo, hiểu biết tường tận đến nơi đến chốn. Ngộ có nghĩa là làm cho tỉnh lại, không còn mê muội.
Giác ngộ và Luân hồi là hai ý niệm đã có từ trước khi Đức Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni ra đời. Các ý niệm này được trình bày trong các kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 trước CN.
Ngộ (悟)có nghĩa là hiểu thấu đáo, hiểu biết tường tận đến nơi đến chốn. Ngộ có nghĩa là làm cho tỉnh lại, không còn mê muội.
Giác ngộ và Luân hồi là hai ý niệm đã có từ trước khi Đức Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni ra đời. Các ý niệm này được trình bày trong các kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 trước CN.
Như vậy, “Giác ngộ” có nghĩa là hiểu rõ chân tính của mọi lý lẽ, thức tỉnh,
nhận thức ra chân lý, tỉnh mộng.
Bodhi
(Giác ngộ) có nguyên ngữ là Budh (người
bình dân Việt Nam thường gọi là Bụt,
người Tàu phiên âm từ tiếng Buddha là
Phật 佛 nói cho đủ là Phật-đà
佛陀, trong các Kinh sách Việt Nam hầu hết đều gọi là Phật).
Giác ngộ là kết quả của một hành trình nhận thức đi đến chỗ thấu đáo chân lý. Nói
khác, Giác ngộ là sự tỉnh thức (Av.
enlightenment/ awakening), là hiểu biết thấu đáo chân tính của mọi lý lẽ.
“Phật
giáo truyền vào Việt Nam ở cuối thế kỷ thứ nhất sang đầu thế kỷ thứ hai của Tây
lịch. Phật giáo truyền vào nước ta bằng hai đường: một là từ Ấn độ truyền trực
tiếp vào bằng đường biển do các thương nhân và tăng sĩ Ấn độ; hai là bằng đường
bộ từ Trung Quốc. Cách phiên âm chữ Phạn “buddh” còn để lại hai cách như sau: lối
phiên âm trực tiếp từ Ấn độ đọc là Bụt (Buddh), ở miền quê xứ Bắc Việt Nam thường
phát âm theo lối này; cách phát âm từ chữ Hán Việt truyền từ ngõ Trung quốc đọc
là Phật (Buddh) hay cho đủ là Phật-đà (Buddha).”
(Nguyễn vĩnh Thượng, Tư tưởng Phật giáo trong văn học
đời Lý, Hiện Đại: 1996, Toronto, Canada.)
Thái tử
Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài
đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộ mà giáo
hoá cho chúng sanh.
Thái tử
Siddhartha đã ngồi dưới gốc cây Bồ-đề (the Bodhi tree) trong 49 ngày. Ngài đã
suy niệm để tìm chân lý, cuối cùng ngày đã giác ngộ vào ngày thứ 49. Trong “Bài thuyết pháp đầu tiên/ Kinh chuyển Pháp
luân” Ngài đã kết luận:
“Này các thầy Tỳ
Kheo! đến khi Như Lai thấu triệt Bốn Diệu
Đế/ Bốn Thánh Đế (insight and understanding of the Four Noble Truths/Four
Holy Truths), về 3 phương diện (three
stages) và đủ mười hai phương thức
(twelve aspects) một cách hoàn toàn sáng tỏ thì đến lúc đó Như Lai mới xác nhận
trước thế gian này gồm có cả chư Thiên (Gods), Ma vương (Maras), Phạm thiên
(Brahmas), Đạo sĩ (Recluses), Giáo sĩ Bà-la-môn (Brahmans), Con người (Humans)
và loài ngoài hạng con người nữa (Some-One) rang:
“ Như Lai đã đạt được Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và rằng lúc ấy tri kiến và nhãn kiến phát
sanh thì tâm của Như Lai được giải
thoát và không còn lay chuyển. Đây là kiếp
sống cuối cùng của Như Lai, Như Lai sẽ không bao giờ tái sanh nữa.”
(I attained the highest and complete Awakening. Thus I knew; knowledge arose in me, insight arose that the emancipation of mind is unmovable. This is my last existence, now there is no more re-birth)
(Trích bài: “Kinh chuyển Pháp luân” bản dịch và chú thích của NVT)
(I attained the highest and complete Awakening. Thus I knew; knowledge arose in me, insight arose that the emancipation of mind is unmovable. This is my last existence, now there is no more re-birth)
(Trích bài: “Kinh chuyển Pháp luân” bản dịch và chú thích của NVT)
Mọi chúng sanh đều có thể tìm được chân lý của cuộc đời và chấm
dứt được tái sanh khi đã giác ngộ. Muốn “giác
ngộ” phải thấu triệt “Bốn Diệu Đế”
(Four Noble Truths), và phải thực hành “con
đường trung đạo” (the middle way) của Bát
chánh đạo ( the Eight Noble Path). Theo truyền thống Phật giáo thì “sự giác
ngộ” là bản tánh thật sự nơi mỗi chúng sanh, nhưng vì đời sống con người có
quá nhiều phiền nhiểu nên vô minh
(Srt, Avidya, Av. Ignorance) che lắp sự hiểu biết này, do đó chúng sanh bị ràng
buộc vào vòng sanh tử luân hồi.
Đức Phật đã giảng: để đạt được tình
trạng giác ngộ, chúng sanh phải diệt được những điều bất hài lòng/ khổ đau.
Theo Phật giáo nguyên thuỷ thì các bậc A-la-hán (Arahant) đã chấm dứt được nghiệp (karma) của họ: tất cả nghiệp thiện (good karma), nghiệp ác (bad karma), nghiệp không thiện không ác (neutral karma) đều không còn.
Theo Phật giáo nguyên thuỷ thì các bậc A-la-hán (Arahant) đã chấm dứt được nghiệp (karma) của họ: tất cả nghiệp thiện (good karma), nghiệp ác (bad karma), nghiệp không thiện không ác (neutral karma) đều không còn.
Còn Phật
thì được định nghĩa như sau:
“Phật (Buddh, 佛, Anh văn: Buddha) có nghĩa là bậc đã giác ngộ (the awakened one or the enlightened one). Phật, hay Giác giả hay Thế Tôn là danh hiệu tôn xưng (the reverend title, very respected title) về đức độ của Phật. Ngài là một con người lịch sử (the historical person) đã khám phá con đường giải thoát (the path to nirvana) cách chấm dứt khổ đau (the cessation of suffering) và truyền bá những khám phá nầy cho nhân loại để họ cũng có thể đạt được sự giải thoát.
“Phật (Buddh, 佛, Anh văn: Buddha) có nghĩa là bậc đã giác ngộ (the awakened one or the enlightened one). Phật, hay Giác giả hay Thế Tôn là danh hiệu tôn xưng (the reverend title, very respected title) về đức độ của Phật. Ngài là một con người lịch sử (the historical person) đã khám phá con đường giải thoát (the path to nirvana) cách chấm dứt khổ đau (the cessation of suffering) và truyền bá những khám phá nầy cho nhân loại để họ cũng có thể đạt được sự giải thoát.
Đức Phật lịch sử đã dạy rằng tất
cả chúng sanh đều có khả năng giác ngộ như Ngài. Ngài nhấn mạnh rằng Ngài chỉ là
một chúng sanh có cùng những xu hướng, những cám dổ như mọi người khác. Nhưng có
nhiều chân lý mà Ngài đã “ngộ” được
dưới gốc cây “Bồ-đề” là nhờ tâm linh
của Ngài khác với người bình thường, Ngài không bị những thiên kiến, những ràng
buộc che lấp chân lý.
Trong sự phát triển của học thuyết Phật giáo (with the
development of Buddhist doctrine), quan niệm về “Giác ngộ” đã có những diễn biến theo thời gian và đã có những sự thích
nghi với các nền văn hoá xã hội địa phương. Chúng tôi sẽ tóm tắt vài quan niệm
khác nhau về “Giác ngộ” của các tông
phái Phật giáo:
1.-Truyền thống phật giáo Nguyên thủy (Original Buddhism tradition) dưới thời Đức Phật lịch sử còn tại thế, đã trình bày ở trên.
1.-Truyền thống phật giáo Nguyên thủy (Original Buddhism tradition) dưới thời Đức Phật lịch sử còn tại thế, đã trình bày ở trên.
2.-Truyền thống Theravada/ Thượng tọa bộ (Theravada tradition):
Theravada đã quan niệm mục đích của việc thực hành tu tập tâm linh là quả vị
A-la-hán, tương tự như quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Họ dẫn chứng rằng
trong thời gian Đức Phật lịch sử còn tại thế đã có nhiều đệ tử của Ngài đạt được
quả vị A-la-hán.
3.- Truyền thống Tịnh độ tông (Pureland tradition): đây là pháp môn niệm
“A-di-đà Phật” để đạt cứu cánh vãng
sanh vào cõi cực lạc của Đức Phật A-di-đà. “Giác
ngộ” không phải là cứu cánh tu hành của phái này.
4.-Truyền thống Mật tông / Kim cương thừa (Vajrayana tradition): Phái
này đưa ra nhiều cách thức tu tập để dẫn tới “Giác ngộ”. Mật tông cũng đã
cho rằng mọi người đều có thể đạt được Phật tính trong cuộc đời của mình bằng cách
thực hiện những phương pháp có quyền lực bí truyền. Các phương pháp tu tập này
rất bí mật, họ chỉ truyền cho những người ở trong đạo mà thôi.
5.-Truyền thống Thiền tông (Zen tradition): Thiền sư dạy đệ tử ngồi
thiền, và thiền quán để đạt được bản tánh của Phật, không cần phải dựa vào văn
tự ngôn ngữ. Hành giả có thể “Giác ngộ”
một cách thình lình. Vị Thầy Thiền sư có thể truyền thẳng chân lý cho đệ tử.
Chúng ta có thể kết luận rằng:
1.-“Giác ngộ” là trạng thái chấm dứt “vô minh”. Trạng thái thấu hiểu được sự vô thường, sự tương liên của chúng sanh.
1.-“Giác ngộ” là trạng thái chấm dứt “vô minh”. Trạng thái thấu hiểu được sự vô thường, sự tương liên của chúng sanh.
2.-Tất cả các truyền thống
Phật giáo đều cho rằng “Giác ngộ” đem
đến sự chấm dứt “tham, sân, si”, sự sợ
hãi, và đem lại sự bình an, đem lại tình thương cho người khác cũng như cho chính
mình.
“Giác ngộ” không phải là những ý niệm chỉ
đọc trong sách vở mà phải được thực hành tu tập thì mới có thể đạt được. Thí dụ:
chúng ta ngắm nhìn các hình ảnh của các món ăn ngon suốt ngày thì chúng ta không
thể nào thực sự biết được vị ngon của nó. Chúng ta không thể chỉ nhìn ly Cà-phê
nóng với sửa đặc có đường mà biết được hương vị thơm ngon của nó cho đến khi ta
uống vào một hớp cà-phê sửa đặc có đường này.
Phần thứ hai: Niết-bàn
Nirvana (Niết-bàn) là một thuật ngữ Phật giáo đã bị các nhà nghiên
cứu Phật học Tây phương hiểu lầm nhiều nhất. Họ cho rằng Nirvana có nghĩa là
Thiên đường (Heaven).
Đức Phật lịch sử đã diễn tả Nirvana như là một cứu cánh tối hậu, và Ngài đã đạt trạng thái Nirvana khi Ngài giác ngộ. Khi đã giác ngộ, Ngài muốn giảng dạy cho những người khác để họ có thể trải nghiệm được sự nhận biết này. Khi Ngài nhập diệt, 45 năm sau khi Ngài giác ngộ, Ngài đã nhập vào Pari Nirvana (Tàu phiên âm là Bát Niết-bàn) có nghĩa là Niết-bàn cuối cùng hay Niết-bàn hoàn hảo.
Đức Phật lịch sử đã diễn tả Nirvana như là một cứu cánh tối hậu, và Ngài đã đạt trạng thái Nirvana khi Ngài giác ngộ. Khi đã giác ngộ, Ngài muốn giảng dạy cho những người khác để họ có thể trải nghiệm được sự nhận biết này. Khi Ngài nhập diệt, 45 năm sau khi Ngài giác ngộ, Ngài đã nhập vào Pari Nirvana (Tàu phiên âm là Bát Niết-bàn) có nghĩa là Niết-bàn cuối cùng hay Niết-bàn hoàn hảo.
Nirvana, theo tiếng Sanskrit xưa, có nghĩa là "thổi tắt lửa" (blowing out the
flame), dập tắt lửa (to extinguish a
flame) trước khi đi ra khỏi nhà để tránh hoả hoạn. Niết-bàn (Srt. Nirvana, Pa. Nibbana) là một thuật ngữ Phật giáo có
nghĩa là giải thoát khỏi luân hồi (輪迴,Sa.
Pa., Samsara, Av. rebirth), tức là tình trạng dập tắt được ba ngọn lửa bất thiện
là tham lam (Sa. Raga, Av.
greed), sân (Sa. Dvesha, Av. Aversion/ hate) và si (Sa. Avidya, Av. Ignorance/ Delusion). Niết-bàn là tình trạng tịch tĩnh (寂静), nghĩa là tình trạng yên tĩnh, bình an (Nirvana is peace).
Điều quan trọng cần phải hiểu rằng Niết-bàn không phải là một cõi, một nơi (Nirvana is not a place), như ý niệm về “tự do” Niết-bàn là một trạng thái (like freedom, it is a state). Để đạt được cứu cánh Niết-bàn thì hành giả phải tiến hành tu tập.
Đạt được Niết-bàn hay đạt được
giải thoát không có nghĩa là chúng ta không còn trải nghiệm những sự việc/ hiện
tượng không được hài lòng/ khổ đau. Thay vào đó, chúng ta không còn tạo ra những
sự không hài lòng/ khổ đau trong cuộc đời của chúng ta. Chính Đức Phật lịch sử
cũng đã trải nghiệm những điều không hài lòng sau khi Ngài đã giác ngộ, nhưng
Ngài không cảm nhận sự đau khổ về các điều bất hài lòng này.
(Xem thêm: bài Cuộc đời của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni của NVT.
(Xem thêm: bài Cuộc đời của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni của NVT.
Nguồn:
như đã dẫn.)
Như vậy, nói cách khác, Niết-bàn (Nirvana) là một trạng thái không còn bám víu/ buông bỏ (state of non-clinging), không còn sân hận (non-aversion) và hiểu thấu đáo vào bản chất của thực tại (clarity into the nature of reality).
Theo truyền thống Phật giáo,
Đức Phật đã nhận thức được hai loại Niết-bàn: một là lúc Ngài giác ngộ (one at
his enlightenment), hai là lúc Ngài qua đời (another at his death). Do đó các
nhà Phật học phân biệt hai loại Niết-bàn:
1.Hữu dư Niết-bàn (有餘涅槃; Sa. Sopadhiśeṣa-nirvāṇa, Pa. Savupadisesa-nibbāna, Av. Nirvana with a remainder): là trạng thái thanh thản, tịch tĩnh của bậc thánh nhân đã dứt được tam độc: tham, sân và si, đã giải thoát khỏi mọi khổ đau/ mọi sự bất hài lòng của cuộc đời, và đã không còn tạo nghiệp khi vẫn còn sống. Bậc thánh nhân này dù đã giác ngộ nhưng vẫn còn sống trên cõi đời nên vẫn còn Ngũ Uẩn, còn có nhân trạng nên gọi là "hữu dư"; Niết -bàn này gọi là Hữu dư Niết-bàn.
1.Hữu dư Niết-bàn (有餘涅槃; Sa. Sopadhiśeṣa-nirvāṇa, Pa. Savupadisesa-nibbāna, Av. Nirvana with a remainder): là trạng thái thanh thản, tịch tĩnh của bậc thánh nhân đã dứt được tam độc: tham, sân và si, đã giải thoát khỏi mọi khổ đau/ mọi sự bất hài lòng của cuộc đời, và đã không còn tạo nghiệp khi vẫn còn sống. Bậc thánh nhân này dù đã giác ngộ nhưng vẫn còn sống trên cõi đời nên vẫn còn Ngũ Uẩn, còn có nhân trạng nên gọi là "hữu dư"; Niết -bàn này gọi là Hữu dư Niết-bàn.
2.Vô dư Niết-bàn ( 無餘涅槃, Sa. nirupadhiśeṣa-nirvāṇa, Pi. anupadisesa-nibbāna,Av. Nirvana without remainder) là trạng
thái tịch tĩnh khi đã chết, đã vượt khỏi luân hồi, không còn sắc thân, đã tịch
diệt. Loại Niết-bàn này còn được gọi là Bát-Niết-bàn (Sa. Pari Nirvana) hay Niết-bàn cuối
cùng (final Nirvana) hay Niết-bàn hoàn hảo (completed Nirvana).
Như đã nói, Niết-bàn không
phải là một nơi chốn (Nirvana is not a place). Niết-bàn là một trạng thái mà hành
giả khám phá và nhận thức được khi giác ngộ.
Niết-bàn không hiện hữu ra ngoài Vô thường, Khổ (Dukkha, đúng nghĩa là Những điều không bằng lòng) và Vô Ngã. Nếu chúng ta thấu hiểu được Vô thường, Vô Ngã và diệt được thực tại Khổ đau (Những điều không bằng lòng) thì chúng ta sẽ khám phá và nhận thức được Niết-bàn ở ngay trong cõi đời này.
(Xem thêm: bài Tứ Pháp Ấn của NVT
Nguồn: như đã dẫn)
Toronto, 15 August 2018
Nguyễn Vĩnh Thượng
Tài liệu tham khảo chính yếu:
Như đã liệt kê ở các bài trước.