marque

*** Chào mừng bạn đang ghé thăm trang web An Phong An Bình***

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2019

Bảy yếu tố của sự giác ngộ


       
Gs. Nguyễn Vĩnh Thượng

                Đức Phật đã nhiều lần giảng giải trong các kinh điển Phật giáo về  Bảy yếu tố của sự giác ngộ”  là: 1.-Niệm, 2.-Trạch pháp, 3.-Tấn, 4.-Phỉ, 5.-An, 6.- Định và 7.-Xả.
                Sapta bodhyanga, tiếng Sanskrit, gồm có Sapta= bảy/ 7 (Av. Seven); Bodh= có ngữ căn Budh có nghĩa là thức tỉnh, giác ngộ (Av. Awaking/ Enlightenment); Anga= yếu tố, cành cây, một phần của toàn thể (Av. Factor/ limb/ a part of the whole).
                Người Tàu dịch là “Thất giác chi” có nghĩa là “Bảy yếu tố của sự giác ngộ” ( Av. Seven factors of awakening/ enlightenment).
                Theo Đức Phật lịch sử thì bảy yếu tố của sự giác ngộ đã có sẳn nơi tâm thức của chúng sanh, chỉ vì chúng sanh chưa phát khởi chúng ra mà thôi.
                Sau đây là 7 yếu tố của sự giác ngộ:

              1.-Niệm (Srt. Smrti, Av. Mindfulness): là sức mạnh do niệm căn, có công năng diệt bỏ các tà niệm phát huy chánh niệm (Right Mindfulness). Đây là sức mạnh giúp ta luôn suy niệm về chánh niệm. Niệm là sự chăm chú vào việc gì mình đang làm, chăm chú một cách kiên trì, liên tục, không gián đoạn. Nhờ Niệm tâm thức phân biệt được điều thiện và điều tà, biết được cái đẹp và cái xấu của hành động mình.
                  Trong Phật giáo, Niệm đã chiếm địa vị trọng tâm. Niệm không những là con đường thứ 7 của Bát Chánh Đạo,  lực thứ 3 của Ngũ lực và là yếu tố thứ nhất của 7 yếu tố của giác ngộ.
           Chữ Hán Việt "niệm gồm ở trên có chữ kim hay kim: có nghĩa là hiện tại, bây giờ; và ở dưới là chữ tâm có nghĩa là trái tim, trong lòng. Như vậy, chữ niệm có nghĩa là nghĩ, nhớ, mong trong hiện tại. (tiếng Pali là Sati, tiếng Anh là mindfulness).
Niệm còn có nghĩa là chú tâm nghĩ ngợi. Trong Pháp Hoa Kinh    có câu: "Đãn nhất tâm niệm Phật" " 但一心念佛  , nghĩa là chỉ một lòng niệm Phật.
Niệm còn có một nghĩa nữa là đọc, tụng. Ví dụ: niệm kinh   nghĩa là đọc/tụng kinh; niệm thư  nghĩa là đọc sách; niệm Phật    là tưởng nhớ đến danh hiệu Phật.
       Niệm (Hán, , Pa. Sati, Anh. mindfulness) là những gì đang gợi lại trong tâm thức ở từng giây phút hiện tại mà không có sự can thiệp của phê phán, tâm thức thấy "sự vật như là nó thật có", tức là không có sự phê phán hoặc tốt hoặc xấu, hoặc không tốt không xấu. Chánh niệm (Right mindfulness) là luôn nghĩ nhớ đến điều lành nên làm, điều ác nên tránh.
Chánh niệm có nghĩa là phải làm cho đời sống của chúng ta gắn liền với những gì mà ta đang làm trong hiện tại. Ví dụ: khi ăn thì ta chú tâm ăn, khi đọc sách thì ta chú tâm đọc, khi đọc Kinh Phật thì ta chú tâm và kinh Phật, Khi đang lái xe thì chú tâm vào việc lái xe, khi rửa chén thì chú tâm vào việc rửa chén.
Chánh niệm khiến chúng ta gợi lại những điều trong quá khứ, nhất là để tâm vào những điều ta luyến tiếc. Chánh niệm khiến chúng ta nghĩ đến tương lai, nhất là những điều chúng ta đang lo lắng. Rồi Chánh niệm giúp ta trở lại giây phút hiện tại để chú ý vào những điều ta đang muốn và đang xảy ra trong hiện tại và tìm ra một giải pháp thích hợp.”
Đức Phật đã thực hành chánh niệm khi Ngài quan sát lại tư tưởng của Ngài, những tình cảm của Ngài, tình trạng sức khỏe của thân xác Ngài và tâm thức của Ngài. Rồi sau đó Ngài tìm "con đường tu hành" thích hợp.
Như vậy, điểm chính của Chánh niệm là không phê phán những trải nghiệm tinh thần như là điều tốt hay như là điều xấu, như là điều muốn làm hay như là điều không muốn làm, như là một điều phải làm hay như là một điều không nên làm. Nói khác, Chánh niệm giúp ta nhận thức "sự vật như là nó có." Rồi nhờ Chánh tinh tấn trợ lực Chánh niệm để thúc đẩy những ý niệm tốt lành được hướng về con đường từ bi hơn.
Trong các tôn giáo khác cũng có những giờ phút suy niệm, nhưng cách thực hành thì khác chánh niệm của Phật giáo.
Ngày nay, Chánh niệm (Right Mindfulness) đã được khoa tâm lý trị liệu áp dụng. Các trường Đại học Y khoa ở Âu Mỹ đã dùng "con đường Chánh niệm" để trị các bệnh tâm thần như căng thẳng (stress), trầm cảm (depression), âu lo (anxiety) ...Chánh niệm đã giúp bịnh nhân nhìn thấy những gì ở quá khứ hiện ra trong hiện tại, hoặc  tưởng tượng những gì ở tương lai hiện ra trong hiện tại như là nó đã thật sự xảy ra một cách không phê phán, hay so sánh với cái khác. Rồi bịnh nhân lần lần không còn bám víu vào cái mình thích và không tránh né những cái mình không thích. Chánh niệm làm giảm dần, và làm biến mất lòng ham muốn, giận dữ, lo sợ, ảo tưởng ... của bịnh nhân, và cuối cùng đem đến một tâm bình an, một trạng thái tốt đẹp.
Chúng ta nên áp dụng Chánh niệm mỗi khi ta có sự giao động trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta để thân tâm được an lạc.
        (Bát Chánh Đạo, tr. 5)

          2.-Trạch pháp ( Srt. Dharma Vicaya, Av. Investigation of the doctrine):
                             Dharma Vicaya, tiếng Sanskrit, có nghĩa là điều tra về một học thuyết (Investigation of the doctrine), điều tra về bản tánh của thực tại (Investigation of the nature reality), tìm hiểu về sự thật (Searching the truth).
                           Người Tàu dịch là Trạch pháp . Con người có lòng muốn biết nên ước muốn điều tra cho ra sự thật để chứng minh một học thuyết, khám phá sự thật của một tin đồn.
                        Dharma Vicaya (Trạch pháp) có nghĩa là khảo sát các pháp/ các hiện tượng/ các sự kiện. Do sự khảo sát các pháp hữu vi (các hiện tượng), chúng ta nhận thức rằng các pháp hữu vi đều trải qua sự biến đổi: sanh, trụ, hoại, diệt một cách nhanh chóng. Toàn thể vũ trụ đều liên tục biến đổi, vô thường, không  thể tồn tại giống hệt nhau trong hai sát-na kế tiếp. Triết gia Hy-lạp Heraclite đã nói :” Không ai có thể tắm một dòng sông đến 2 lần”.

                     3.-Tấn (Srt. Virya, Av. Energy/ Effort):
                            Trong Phật giáo, tinh tấn là sức mạnh được đem đến do các nguồn: niệm, trạch pháp, đức tin vào sự thực hành chánh pháp. Nhờ tinh tấn, một nguồn năng lực, giúp chúng ta tìm thấy được ý nghĩa của cuộc đời.
                            Tấn lực (Srt. Virya Bala, Av. Energy/ power) là sức mạnh do tấn căn sinh ra, có công năng mang đến sự vui thú trong lúc thực hành tu tập nhằm diệt trừ sự lười biếng, giúp sự siêng năng trong việc diệt ác để hành thiện.
                            Trong 7 yếu tố của sự giác ngộ, tinh tấn là yếu tố thứ 3.Trong ngũ lực, tinh tấn là sức mạnh tinh thần. Trong lục độ ba-la-mật, tinh tấn đứng hàng thứ tư.
                            Trong Bát Chánh Đạo, tinh tấn là con đường thứ 6 để đạt được giác ngộ. Đức Phật đã giảng về Chánh Tinh Tấn như sau:
     Chánh tinh tấn là kỷ luật tinh thần nhằm chú tâm cố gắng, siêng năng, kiên nhẫn để sử dụng sự cố gắng thích hợp giữa hai cực đoan: một bên là lười biếng, một bên là làm quá sức. Chánh tinh tấn là loại bỏ những thái độ, những tư tưởng không đúng đắn. Chúng ta đã biết rằng Đức Phật đã cố gắng chống lại những trở lực để đi đến chỗ giác ngộ: Ngài đã bị thiếu nữ Mara cám dỗ, nhưng Ngài đã không bị lay chuyển để rồi đi đến chỗ đắc đạo.
    Đức Phật khuyên rằng để thực hành chánh tinh tấn, chúng ta phải làm các việc như sau:
       -Ngăn ngừa và đoạn trừ các điều ác.
       -Chuyên cần làm những điều thiện.” 
            (Bát Chánh Đạo, tr. 5)

             4.-Phỉ (Srt. Priti, Av. Joy):
                       Priti, tiếng Sanskrit, có nghĩa là vui mừng, là hạnh phúc. Chúng ta có thể tìm thấy sự vui mừng ở trong tâm thức, ngay cả lúc cơ thể chúng ta không cảm thấy khỏe.
                       Con người cần phải “tri túc” (biết đủ) để đem lại sự vui mừng và hạnh phúc. Tri túc là biết đủ, con người thường  được voi đòi tiên” nên cứ chạy theo lòng ham muốn. Bởi vậy, cần phải “tri túc” để hưởng thụ những gì mình đang có và như thế mới đạt hạnh phúc. “Phỉ” ( Srt. Priti) sẽ dẫn đến sự chứng ngộ trọn vẹn, đến Niết-bàn, đến sự thanh thản, an nhiên.

               5.-An (Srt. Prasrabhi,/Prasrabdhi, Av. Relaxation/ ease/ tranquility of both body and mind):
                            Prasrabhi, tiếng Sanskrit, Tàu dịch là khinh an, có nghĩa là sự an tỉnh, thư giản.
                            Chúng ta cần phải giữ cho cái tâm an tỉnh, giữ cái tâm bình thản trước những nghịch cảnh của cuộc đời để khỏi phải bị phiền lụy, không còn bị phiền não, lo âu. Chúng ta cần phải tự huấn luyện tâm thần, đòi hỏi thời gian, để tâm thần được an tỉnh. Có như thế thì mới đi đến chỗ giác ngộ và giải thoát khỏi những khổ đau của cuộc đời.
                              Như khi chúng ta bị bịnh, chúng ta nằm trên gường để tịnh dưỡng, không làm việc gì cả. Đôi khi không buồn ăn, không buồn uống. Rồi sức lực được hồi phục lần lần khi cơn bịnh được khắc phục.
                              Chúng ta cũng cần thực hành sự an tỉnh ngay cả lúc chúng ta khỏe mạnh. Chúng ta ngồi uống trà, uống cà-phê, đi thả bộ trong công viên … là những cơ hội tốt để làm an tỉnh tâm thần.

                    6.- Định (Srt. Samadhi, Av. Concentration):
                                Samadhi, tiếng Sanskrit, gồm có: Sam có nghĩa là cùng nhau, a có nghĩa là mang đến một nơi chắc chắn, dhi là sự cố gắng của tâm thức. Như vậy Samadhi có nghĩa là sự cố gắng của tâm thức tập trung vào một đối tượng, vào một chỗ, không bị giao động.
                              Như đã biết, người thực hành phép thiền định phải đương đầu với 5 chướng ngại tinh thần, và phải vượt qua những chướng ngại này để đạt được giác ngộ.
                            Định lực (Srt. Samadhi bala, Av. Concentration power) là sức mạnh do định căn giúp ta tập trung tư tưởng vào một việc/ một vấn đề nào một cách thâm sâu và sáng suốt. Khi đọc sách thì phải tập trung vào việc đọc sách, không nghĩ ngợi lung tung, khi ăn cơm thì phải tập trung vào việc ăn.
                            Định là yếu tố thứ 6 của 7 yếu tố của sự giác ngộ. Định là con đường thứ 8 của Bát Chánh Đạo. Đức Phật đã giảng:
      Định () có nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, vào một đối tượng gì, vào một điểm gì; lúc ấy tinh thần ở trong trạng thái thuần nhất và không giao động. Đạo Phật có phép tu khiến cho tâm tĩnh lặng, không vọng động, gọi là "định"; ví dụ: nhập định 入定, thiền định ( ).
          Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì tốt lành như lòng từ bi, như  sự vô thường của cuộc đời. Tâm thần của chúng ta được coi như là một tấm gương dính bụi, Chánh định coi như lau chùi tấm gương để tấm gương được sáng tỏ. Nói khác, Chánh định giúp cho tâm thần được sáng sủa để nhìn sự vật như là nó hiện hữu trong thực tại.
          Chánh định giúp chúng ta nhìn thấu triệt tính vô thường, tính duyên khởi của mọi sự vật, mọi hoàn cảnh ở đời để giúp chúng ta làm giảm những lo lắng, sợ sệt, nghi ngờ, tham luyến, giận dữ và ảo tưởng về một việc hay một vấn đề nào đó; và nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ bình an hơn, sẽ khéo léo hơn, và sẽ từ bi hơn để đem lợi ích cho chính chúng ta và cho người khác.
          Một kỷ thuật thường được dùng cho phương pháp chánh định một cách đơn giản là tập trung tư tưởng vào hơi thở. Hành giả có thể chú ý vào hơi thở của mình, theo dõi hơi thở ra và theo dõi hơi thở vào. Khi có một vọng động nào kéo đến tâm thức bởi các ý tưởng khác, bởi các hình ảnh khác, bởi các cảm xúc khác thì hành giả đem sự chú ý của mình trở lại sự theo dõi hơi thở mà mình đang thở. Hoặc khi có một ý nào hồi tưởng về quá khứ, hoặc một dự phóng về tương lai xuất hiện thì hành giả phải rời những kỷ niệm trong quá khứ, phải rời khỏi những mơ ước tương lai bằng cách đem sự chú ý, sự tập trung vào hơi thở của mình, theo dõi, tập trung vào hơi thở đang thở ra và thở vô. Cách thực hiện thiền định ( ) này gọi là "tập trung tinh thần vào một điểm"(one-pointed mental concentration). Do cách thực hành Chánh định sẽ giúp chúng ta thực hiện Chánh niệm ngay tức khắc.
           (Bát Chánh Đạo, tr. 6)

          7.-Xả (Srt. Upeksa, Av. Equanimity/ letting go):
                 Theo Abhidharma (Tàu dịch là Vi Diệu Pháp), Upeksa, tiếng Sanskrit, có nghĩa là trung lập, không thiên bên nào. Đây là trạng thái tâm quân bình, nhận thức được thực tại như là chính nó không còn bám víu (Av. To accept reality as-it-is without craving) nghĩa là xả, tức là kết quả của tâm thức an tĩnh. Xả giúp con người không bị giao động trước những phong ba của cuộc đời: được và thua, tiếng thơm và tiếng xấu, đau khổ và hạnh phúc.
                  Tâm xả giúp con người nhìn sự vật, yêu thương chúng sanh một cách bình đẳng, không thiên vị.

Kết luận:
             Bảy yếu tố trên như thể bảy cành cây của một thân cây, 7 yếu tố là một tổng thể. Chúng ta phải trau dồi “bảy yếu tố” này với một tâm thức nhiệt thành, với một ý chí dũng cảm để giúp chúng ta đến chỗ chứng ngộ, đạt được cứu cánh Niết-bàn, an nhiên tự tại.

   Toronto, 9 Sept. 2019
    Nguyễn Vĩnh Thượng

Tài liệu tham khảo: như đã liệt kê trong các bài trước.