marque

*** Chào mừng bạn đang ghé thăm trang web An Phong An Bình***

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2019

Năm sức mạnh tinh thần


               
Gs Nguyễn Vĩnh Thượng

     Panca Bala, tiếng Sanskrit, là một thuật ngữ Phật giáo được thấy vào thế kỷ thứ 2 CN trong Dharma – Samgraha (Av. Wisdom Library); cụm từ này gồm có: panca = 5/ngũ (Av. Five), và bala = sức/ lực (Av. Power/ Strength). Vậy Panca Bala  có nghĩa là ngũ lực/ 5 sức mạnh tinh thần (Av. Five powers/ five strengths): 1. Tín lực, 2.- Tấn lực, 3.- Niệm lực, 4.- Định lực và 5.- Huệ lực. Năm sức mạnh tinh thần này làm tăng các pháp thiện, pháp lành. Ngũ lực có được là nhờ ngũ căn (= 1.-Tín căn, 2.-Tấn căn, 3.- Niệm căn, 4.- Định căn, 5.- Huệ căn).
     Ngũ căn và ngũ lực là thành phần thứ tư và thứ năm thuộc bảy thành phần của 37 phần trợ đạo (còn gọi là 37 Bồ-đề phần) là những yếu tố tạo thiện nghiệp giúp chúng sanh đi đến giác ngộ.
    Ngũ căn (Srt. Panca Indriya, Av.  five bases) là sức mạnh căn bản để tạo nên nguồn năng lượng trong chúng ta. Ngũ lực là sức mạnh của nguồn năng lực đang hoạt động.

    Ngũ lực gồm có:
              1.-Tín lực (Srt. Sraddha Bala, Av. Faith power) là sức mạnh do tín căn sinh ra, có công năng loại bỏ các tin tưởng sai lầm.
                   Đức tin (Av. Faith) là hạt giống nếu không có nó thì cái cây của đời sống tâm linh không thể nào nẩy mầm. Như một vấn đề của hiện thực, không có đức tin con người không thể nào làm được tất cả những gì có giá trị. Đây là một chân lý không những chỉ có ở Phật giáo mà còn có ở tất cả các tôn giáo khác như Bà-la-môn giáo, Cơ-đốc giáo, Hồi giáo . . . và ngay cả các ngụy tôn giáo/ tôn giáo giả (pseudo-religions) của thời hiện đại như là chủ nghĩa cọng sản (Communism).
                  Đức tin là một hành trình tâm linh, xuyên qua đức tin, chúng ta đi từ điều đã biết đến điều chưa biết. Đức tin có thể đến từ những điều đã đọc, hoặc đã nghe rồi tình cờ phát hiện được ý nghĩa thâm sâu ở đó đã đi vào trái tim của chủ thể.
                 Đức tin có một ảnh hưởng rất lớn đối với ý thức. Đức tin đã làm phai mờ những bóng mây hoài nghi trong ý thức.
                 Trong Đạo Phật, “đức tin” được sinh khởi từ việc nghe những lời thuyết pháp của Đức Phật lịch sử. Lời dạy của Phật về nguyên nhân của khổ đau/ những điều không hài lòng, và những phương cách để ngăn chận những nguyên nhân gây khổ đau. Đạo Phật không đòi hỏi Phật giáo đồ một đức tin mù quáng, hành giả cần suy xét tường tận trước khi chấp nhận một điều gì. Bởi vì đức tin mù quáng không bao giờ soi sáng chân lý.
                  Đức tin đòi hỏi sự kết hợp của 4 yếu tố sau đây:
                             1.-Trí tuệ (intellect):
                                     Đức tin là sự chấp nhận một hay nhiều học thuyết mà không cần phải chứng minh ngay tức khắc và trực tiếp vào những bằng cớ hiện thực. Như một vấn đề của đức tin, niềm tin phải vượt qua những bằng cớ hiện thực, và sẳn sàng lắp những hố thẳm ngăn cách các bằng chứng với một thái độ kiên nhẫn và niềm tin để chấp nhận. Trong nhiều tôn giáo, những lập thuyết thường được chấp nhận bởi niềm tin, và sự chấp nhận vào thẩm quyền của kinh văn mà vị Sư Thầy đã giảng.
                                   Nói một cách tổng quát, niềm tin được coi như là bước đầu, bước sơ khởi, như là một tình trạng tạm thời.
                                   Trong rất nhiều trường hợp, niềm tin thường bị phai mờ trước sự can thiệp mạnh mẽ của trí tuệ (wisdom) để có cái nhìn thâm sâu và mạnh mẽ vào bản tính của thực tại cho đến khi nhiều quan điểm của học thuyết có tính thuyết phục được niềm tin.
                                   Trong Đạo Phật, Đức tin có 4 yếu tố chính như sau: 1.-Niềm tin vào nghiệp và tái sanh. 2.-Sự chấp nhận các lời dạy căn bản của Đức Phật lịch sử như: Tứ Diệu Đế, Nhân Duyên, Tánh Không v...v… 3.-Sự kính trọng “Tam Bảo”: Phật, Pháp và Tăng. 4.-Niềm tin vào sự hữu hiệu của các phương thức thực nghiệm tâm linh, và tin vào cứu cánh Niết-bàn như là con đường để giải thoát khỏi những khó khăn, những khổ đau.
                           2.- Ý chí (Av. Volition):
                            Chúng ta đang sống trong thời đại của hoài nghi (We are living in the skeptical age), chúng ta đã đặt để trí tuệ rất nhiều vào niềm tin. Nhưng mà niềm tin (Srt. Shraddha, Av. Faith) lại là một vấn đề của trái tim hơn là của trí tuệ.
                             Niềm tin là hành động của ý chí (Av. Volition, Will) và của sự chủ ý. Ý chí bao gồm sự cương quyết để chủ thể làm một điều gì với lòng tin của chính mình tức là tin rằng mình có thể làm điều đó. Đối lại với niềm tin là tính rụt rè, sợ sệt, và tính toán.
                           3.-Tình cảm (Av. Emotion):
                       Niềm tin là một thái độ thanh thản, bình yên và tỉnh táo. Niềm tin đối lập với sự lo âu, tâm thần bấn loạn vì nhiều vấn nạn xảy ra. Bởi vậy, những ai có đức tin thì sẽ làm tiêu tan được: - sự lo lắng về sự mất tiếng tăm, về sự chết, về sự bất hạnh phúc…
                          4.- Liên hệ đến xã hội (Av. Relation to society):
                       Theo Phật giáo, về mặt xã hội, đức tin có liên hệ đến sự tin tưởng vào Tam bảo: Phật, Pháp và Tăng.
                       Phật giáo đã thay thế đời sống tâm linh cho những hoàn cảnh tự nhiên bằng cách thay thế  Đức Phật ( the Buddha) như là một người Cha (the Father) và Bát-nhã Ba-la-mật-đa (Prajna Paramita) như là một người Mẹ (The Mother), các Tín hữu (the Fellow Seekers) như là anh và chị, em, thân thuộc và bạn bè (Brothers and Sisters, Relatives and friends).
             2.-Tấn lực (Srt. Virya- bala, Av. Power/ energy/ diligence):
                     Tấn lực là sức mạnh do tinh tấn căn sinh ra, có công năng mang đến sự vui thú trong lúc thực hành tu tập nhằm diệt trừ sự lười biếng, giúp sự siêng năng trong việc diệt trừ tính ác để hành thiện.
                      Trong “Bát chánh đạo”, tinh tấn là con đường thứ 6 để đạt được giác ngộ. Đức Phật đã giảng về tinh tấn như sau:
     Chánh tinh tấn là kỷ luật tinh thần nhằm chú tâm cố gắng, siêng năng, kiên nhẫn để sử dụng sự cố gắng thích hợp giữa hai cực đoan: một bên là lười biếng, một bên là làm quá sức. Chánh tinh tấn là loại bỏ những thái độ, những tư tưởng không đúng đắn. Chúng ta đã biết rằng Đức Phật đã cố gắng chống lại những trở lực để đi đến chỗ giác ngộ: Ngài đã bị thiếu nữ Mara cám dỗ, nhưng Ngài đã không bị lay chuyển để rồi đi đến chỗ đắc đạo.
    Đức Phật khuyên rằng để thực hành chánh tinh tấn, chúng ta phải làm các việc như sau:
       -Ngăn ngừa và đoạn trừ các điều ác.
       -Chuyên cần làm những điều thiện.”
                    (Bát Chánh Đạo, tr. 5)

       3.-Niệm lực (Srt. Smriti-bala, Av. Mindfulness power) là sức mạnh do niệm căn, có công năng diệt bỏ các tà niệm, phát huy chánh niệm (Right Mindfulness). Đây là sức mạnh giúp ta luôn suy niệm về chánh niệm.
          Trong Phật giáo, niệm đã chiếm địa vị trọng tâm. Niệm là con đường thứ 7 của Bát Chánh Đạo, là lực thứ 3 của Ngũ lực, và là yếu tố thứ nhất của 7 yếu tố của Giác ngộ.
          Đức Phật đã giảng Niệm trong Bát Chánh Đạo như sau:
    Chánh niệm:      Chữ Hán Việt, "Niệm  gồm ở trên có chữ kim hay kim: có nghĩa là hiện tại, bây giờ; và ở dưới là chữ tâm có nghĩa là trái tim, trong lòng. Như vậy chữ niệm có nghĩa là nghĩ, nhớ, mong trong hiện tại. (tiếng Pali là Sati, tiếng Anh là mindfulness).
Niệm còn có nghĩa là chú tâm nghĩ ngợi. Trong Pháp Hoa Kinh    có câu: "Đãn nhất tâm niệm Phật" " 但一心念佛  , nghĩa là chỉ một lòng niệm Phật.
Niệm còn có một nghĩa nữa là đọc, tụng. Ví dụ: niệm kinh   nghĩa là đọc/tụng kinh; niệm thư  nghĩa là đọc sách; niệm Phật    là tưởng nhớ đến danh hiệu Phật.

Niệm (Hán, , Pa. Sati, Srt. Smriti,  Anh. mindfulness) là những gì đang gợi lại trong tâm thức ở từng giây phút hiện tại mà không có sự can thiệp của phê phán, tâm thức thấy "sự vật như là nó thật có", tức là không có sự phê phán hoặc tốt hoặc xấu, hoặc không tốt không xấu. Chánh niệm (Right mindfulness) là luôn nghĩ nhớ đến điều lành nên làm, điều ác nên tránh.
Chánh niệm có nghĩa là phải làm cho đời sống của chúng ta gắn liền với những gì mà ta đang làm trong hiện tại. Ví dụ: khi ăn thì ta chú tâm ăn, khi đọc sách thì ta chú tâm đọc, khi đọc Kinh Phật thì ta chú tâm và kinh Phật, Khi đang lái xe thì chú tâm vào việc lái xe, khi rửa chén thì chú tâm vào việc rửa chén.
Chánh niệm khiến chúng ta gợi lại những điều trong quá khứ, nhất là để tâm vào những điều ta luyến tiếc. Chánh niệm khiến chúng ta nghĩ đến tương lai, nhất là những điều chúng ta đang lo lắng. Rồi Chánh niệm giúp ta trở lại giây phút hiện tại để chú ý vào những điều ta đang muốn và đang xảy ra trong hiện tại và tìm ra một giải pháp thích hợp.
Đức Phật đã thực hành chánh niệm khi Ngài quan sát lại tư tưởng của Ngài, những tình cảm của Ngài, tình trạng sức khỏe của thân xác Ngài và tâm thức của Ngài. Rồi sau đó Ngài tìm "con đường tu hành" thích hợp.
Như vậy, điểm chính của Chánh niệm là không phê phán những trải nghiệm tinh thần như là điều tốt hay như là điều xấu, như là điều muốn làm hay như là điều không muốn làm, như là một điều phải làm hay như là một điều không nên làm. Nói khác, Chánh niệm giúp ta nhận thức "sự vật như là nó có." Rồi nhờ Chánh tinh tấn trợ lực Chánh niệm để thúc đẩy những ý niệm tốt lành được hướng về con đường từ bi hơn.
Trong các tôn giáo khác cũng có những giờ phút suy niệm, nhưng cách thực hành thì khác chánh niệm của Phật giáo.
Ngày nay, Chánh niệm (Right Mindfulness) đã được khoa tâm lý trị liệu áp dụng. Các trường Đại học Y khoa ở Âu Mỹ đã dùng "con đường Chánh niệm" để trị các bệnh tâm thần như căng thẳng (stress), trầm cảm (depression), âu lo (anxiety) ...Chánh niệm đã giúp bịnh nhân nhìn thấy những gì ở quá khứ hiện ra trong hiện tại, hoặc  tưởng tượng những gì ở tương lai hiện ra trong hiện tại như là nó đã thật sự xảy ra một cách không phê phán, hay so sánh với cái khác. Rồi bịnh nhân lần lần không còn bám víu vào cái mình thích và không tránh né những cái mình không thích. Chánh niệm làm giảm dần, và làm biến mất lòng ham muốn, giận dữ, lo sợ, ảo tưởng ... của bịnh nhân, và cuối cùng đem đến một tâm bình an, một trạng thái tốt đẹp.
Chúng ta nên áp dụng Chánh niệm mỗi khi ta có sự giao động trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta để thân tâm được an lạc.
    (Bát Chánh Đạo, tr. 6)

       4.- Định lực ( Srt. Samadhi-bala, Av. Concentration power) là sức mạnh do định căn giúp ta tập trung tư tưởng vào một việc/ một vấn đề nào một cách thâm sâu và sáng suốt. Khi đọc sách thì phải tập trung vào việc đọc sách, không  nghĩ ngợi lung tung, khi ăn cơm thì phải tập trung vào việc ăn cơm . . .
            Định là con đường thứ 8 của Bát Chánh Đạo. Đức Phật đã giảng như sau:
Chánh định:     Định () có nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, vào một đối tượng gì, vào một điểm gì; lúc ấy tinh thần ở trong trạng thái thuần nhất và không giao động. Đạo Phật có phép tu khiến cho tâm tĩnh lặng, không vọng động, gọi là "định"; ví dụ: nhập định 入定, thiền định ( ).
Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì tốt lành như lòng từ bi, như  sự vô thường của cuộc đời. Tâm thần của chúng ta được coi như là một tấm gương dính bụi, Chánh định coi như lau chùi tấm gương để tấm gương được sáng tỏ. Nói khác, Chánh định giúp cho tâm thần được sáng sủa để nhìn sự vật như là nó hiện hữu trong thực tại.
Chánh định giúp chúng ta nhìn thấu triệt tính vô thường, tính duyên khởi của mọi sự vật, mọi hoàn cảnh ở đời để giúp chúng ta làm giảm những lo lắng, sợ sệt, nghi ngờ, tham luyến, giận dữ và ảo tưởng về một việc hay một vấn đề nào đó; và nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ bình an hơn, sẽ khéo léo hơn, và sẽ từ bi hơn để đem lợi ích cho chính chúng ta và cho người khác.
Một kỷ thuật thường được dùng cho phương pháp chánh định một cách đơn giản là tập trung tư tưởng vào hơi thở. Hành giả có thể chú ý vào hơi thở của mình, theo dõi hơi thở ra và theo dõi hơi thở vào. Khi có một vọng động nào kéo đến tâm thức bởi các ý tưởng khác, bởi các hình ảnh khác, bởi các cảm xúc khác thì hành giả đem sự chú ý của mình trở lại sự theo dõi hơi thở mà mình đang thở. Hoặc khi có một ý nào hồi tưởng về quá khứ, hoặc một dự phóng về tương lai xuất hiện thì hành giả phải rời những kỷ niệm trong quá khứ, phải rời khỏi những mơ ước tương lai bằng cách đem sự chú ý, sự tập trung vào hơi thở của mình, theo dõi, tập trung vào hơi thở đang thở ra và thở vô. Cách thực hiện thiền định ( ) này gọi là "tập trung tinh thần vào một điểm"(one-pointed mental concentration). Do cách thực hành Chánh định sẽ giúp chúng ta thực hiện Chánh niệm ngay tức khắc.
    (Bát Chánh Đạo, tr. 8)

        5.- Huệ lực (Srt. Prajna-bala, Av. Wisdom Power) là sức mạnh do huệ căn, có công năng giúp ta nhìn một vấn đề/ một việc gì một cách sâu sắc và rõ ràng, giúp ta nhận thức được kết quả của việc làm này. Nhờ vậy, chúng ta loại bỏ được sự sai lầm, phát huy được lòng tin chân chánh/ chánh tín (Right Faith). Do đó chúng ta có thể đạt được cứu cánh giải thoát, của Niết-bàn trong cõi đời này.
       “ Prajna (Tàu phiên âm là Bát-nhã) dịch là trí tuệ (wisdom). Trong tiếng Sanskrit thì chữ gốc Jna có nghĩa là biết ( to know), được nhấn mạnh bởi tiếp đầu ngữ Pra. Như vậy, Prajna không chỉ có nghĩa là nhận thức, sự hiểu biết bình thường mà còn là sự hiểu biết về thực tại tuyệt đối, sự hiểu biết về mọi sự, mọi vật tận sâu thẳm. Prajna là trí tuệ siêu việt (Perfect wisdom), là trí tuệ thâm sâu ( profound wisdom) của các bậc giác ngộ dùng để soi sáng và quán chiếu được bản tánh của các hiện tượng/ các pháp (dharmas), và nhận thức rõ ràng rằng các pháp đều không có tự tánh. Prajna là trí tuệ siêu việt vượt qua khỏi thế giới hiện tượng, vượt qua khỏi nhận thức nhị nguyên.”
    (Bát-nhã Tâm Kinh – Chú giảng, tr. 15)

Kết luận:
      Tất cả 5 đức tính của Ngũ lực phải được coi là một sự kết hợp của một tổng thể đồng nhất. Sự đồng điệu, hoà hợp, cân bằng của 5 đức tính này rất quan trọng. Cả 5 đức tính sẽ hổ trợ lẫn nhau.
       Sự cân bằng của ngũ lực ở trong tâm thần là một điều được xem rất quan trọng không những ở Khổng giáo mà còn ở Phật giáo nữa.

Toronto, 30 Aug. 2019
 Nguyễn Vĩnh Thượng

Tài liệu tham khảo: như đã liệt kê trong các bài trước.