Gs Nguyễn Vĩnh
Thượng
Panca Bala, tiếng Sanskrit, là một thuật
ngữ Phật giáo được thấy vào thế kỷ thứ 2 CN trong Dharma – Samgraha (Av. Wisdom
Library); cụm từ này gồm có: panca = 5/ngũ (Av. Five), và bala = sức/ lực (Av.
Power/ Strength). Vậy Panca Bala có
nghĩa là ngũ lực/ 5 sức mạnh tinh thần (Av. Five powers/ five strengths): 1.
Tín lực, 2.- Tấn lực, 3.- Niệm lực, 4.- Định lực và 5.- Huệ lực. Năm sức mạnh
tinh thần này làm tăng các pháp thiện, pháp lành. Ngũ lực có được là nhờ ngũ
căn (= 1.-Tín căn, 2.-Tấn căn, 3.- Niệm căn, 4.- Định căn, 5.- Huệ căn).
Ngũ căn và ngũ lực là thành phần thứ tư và
thứ năm thuộc bảy thành phần của 37 phần trợ đạo (còn gọi là 37 Bồ-đề phần) là
những yếu tố tạo thiện nghiệp giúp chúng sanh đi đến giác ngộ.
Ngũ căn (Srt. Panca Indriya, Av. five bases) là sức mạnh căn bản để tạo nên
nguồn năng lượng trong chúng ta. Ngũ lực là sức mạnh của nguồn năng lực đang hoạt
động.
Ngũ lực gồm có:
1.-Tín lực (Srt. Sraddha Bala, Av. Faith power) là sức mạnh do tín căn
sinh ra, có công năng loại bỏ các tin tưởng sai lầm.
Đức tin (Av. Faith) là hạt
giống nếu không có nó thì cái cây của đời sống tâm linh không thể nào nẩy mầm.
Như một vấn đề của hiện thực, không có đức tin con người không thể nào làm được
tất cả những gì có giá trị. Đây là một chân lý không những chỉ có ở Phật giáo mà
còn có ở tất cả các tôn giáo khác như Bà-la-môn giáo, Cơ-đốc giáo, Hồi giáo . .
. và ngay cả các ngụy tôn giáo/ tôn giáo giả (pseudo-religions) của thời hiện đại
như là chủ nghĩa cọng sản (Communism).
Đức tin là một hành trình tâm
linh, xuyên qua đức tin, chúng ta đi từ điều đã biết đến điều chưa biết. Đức
tin có thể đến từ những điều đã đọc, hoặc đã nghe rồi tình cờ phát hiện được ý
nghĩa thâm sâu ở đó đã đi vào trái tim của chủ thể.
Đức tin có một ảnh hưởng rất lớn
đối với ý thức. Đức tin đã làm phai mờ những bóng mây hoài nghi trong ý thức.
Trong Đạo Phật, “đức tin” được sinh khởi từ việc nghe những
lời thuyết pháp của Đức Phật lịch sử. Lời dạy của Phật về nguyên nhân của khổ đau/
những điều không hài lòng, và những phương cách để ngăn chận những nguyên nhân
gây khổ đau. Đạo Phật không đòi hỏi Phật giáo đồ một đức tin mù quáng, hành giả
cần suy xét tường tận trước khi chấp nhận một điều gì. Bởi vì đức tin mù quáng
không bao giờ soi sáng chân lý.
Đức tin đòi hỏi sự kết hợp của 4 yếu tố sau đây:
1.-Trí tuệ (intellect):
Đức tin là
sự chấp nhận một hay nhiều học thuyết mà không cần phải chứng minh ngay tức khắc
và trực tiếp vào những bằng cớ hiện thực. Như một vấn đề của đức tin, niềm tin
phải vượt qua những bằng cớ hiện thực, và sẳn sàng lắp những hố thẳm ngăn cách
các bằng chứng với một thái độ kiên nhẫn và niềm tin để chấp nhận. Trong nhiều
tôn giáo, những lập thuyết thường được chấp nhận bởi niềm tin, và sự chấp nhận
vào thẩm quyền của kinh văn mà vị Sư Thầy đã giảng.
Nói một cách
tổng quát, niềm tin được coi như là bước đầu, bước sơ khởi, như là một tình trạng
tạm thời.
Trong rất
nhiều trường hợp, niềm tin thường bị phai mờ trước sự can thiệp mạnh mẽ của trí
tuệ (wisdom) để có cái nhìn thâm sâu và mạnh mẽ vào bản tính của thực tại cho đến
khi nhiều quan điểm của học thuyết có tính thuyết phục được niềm tin.
Trong Đạo Phật,
Đức tin có 4 yếu tố chính như sau: 1.-Niềm tin vào nghiệp và tái sanh. 2.-Sự chấp
nhận các lời dạy căn bản của Đức Phật lịch sử như: Tứ Diệu Đế, Nhân Duyên, Tánh
Không v...v… 3.-Sự kính trọng “Tam Bảo”:
Phật, Pháp và Tăng. 4.-Niềm tin vào sự hữu hiệu của các phương thức thực nghiệm
tâm linh, và tin vào cứu cánh Niết-bàn như là con đường để giải thoát khỏi những
khó khăn, những khổ đau.
2.- Ý
chí (Av. Volition):
Chúng ta đang sống
trong thời đại của hoài nghi (We are living in the skeptical age), chúng ta đã
đặt để trí tuệ rất nhiều vào niềm tin. Nhưng mà niềm tin (Srt. Shraddha, Av.
Faith) lại là một vấn đề của trái tim hơn là của trí tuệ.
Niềm tin là hành động
của ý chí (Av. Volition, Will) và của sự chủ ý. Ý chí bao gồm sự cương quyết để
chủ thể làm một điều gì với lòng tin của chính mình tức là tin rằng mình có thể
làm điều đó. Đối lại với niềm tin là tính rụt rè, sợ sệt, và tính toán.
3.-Tình cảm (Av. Emotion):
Niềm tin là một thái độ
thanh thản, bình yên và tỉnh táo. Niềm tin đối lập với sự lo âu, tâm thần bấn
loạn vì nhiều vấn nạn xảy ra. Bởi vậy, những ai có đức tin thì sẽ làm tiêu tan
được: - sự lo lắng về sự mất tiếng tăm, về sự chết, về sự bất hạnh phúc…
4.- Liên hệ đến xã hội (Av. Relation to society):
Theo Phật giáo, về mặt xã
hội, đức tin có liên hệ đến sự tin tưởng vào Tam bảo: Phật, Pháp và Tăng.
Phật giáo đã thay thế đời
sống tâm linh cho những hoàn cảnh tự nhiên bằng cách thay thế Đức Phật ( the Buddha) như là một người Cha
(the Father) và Bát-nhã Ba-la-mật-đa (Prajna Paramita) như là một người Mẹ (The
Mother), các Tín hữu (the Fellow Seekers) như là anh và chị, em, thân thuộc và
bạn bè (Brothers and Sisters, Relatives and friends).
2.-Tấn lực (Srt. Virya- bala, Av. Power/ energy/ diligence):
Tấn lực là sức mạnh do
tinh tấn căn sinh ra, có công năng mang đến sự vui thú trong lúc thực hành tu tập
nhằm diệt trừ sự lười biếng, giúp sự siêng năng trong việc diệt trừ tính ác để
hành thiện.
Trong “Bát chánh đạo”,
tinh tấn là con đường thứ 6 để đạt được giác ngộ. Đức Phật đã giảng về tinh tấn
như sau:
“Chánh
tinh tấn là kỷ luật tinh thần nhằm chú tâm cố gắng, siêng năng, kiên nhẫn để sử
dụng sự cố gắng thích hợp giữa hai cực đoan: một bên là lười biếng, một bên là
làm quá sức. Chánh tinh tấn là loại bỏ những thái độ, những tư tưởng không đúng
đắn. Chúng ta đã biết rằng Đức Phật đã cố gắng chống lại những trở lực để đi đến
chỗ giác ngộ: Ngài đã bị thiếu nữ Mara cám dỗ, nhưng Ngài đã không bị lay chuyển
để rồi đi đến chỗ đắc đạo.
Đức Phật khuyên rằng để thực hành chánh tinh tấn, chúng ta phải làm các
việc như sau:
-Ngăn ngừa và đoạn trừ các điều ác.
-Chuyên cần làm những điều thiện.”
(Bát Chánh Đạo, tr. 5)
3.-Niệm
lực (Srt. Smriti-bala, Av. Mindfulness power) là sức mạnh do niệm căn, có công
năng diệt bỏ các tà niệm, phát huy chánh niệm (Right Mindfulness). Đây là sức mạnh
giúp ta luôn suy niệm về chánh niệm.
Trong Phật giáo, niệm đã chiếm địa vị
trọng tâm. Niệm là con đường thứ 7 của Bát Chánh Đạo, là lực thứ 3 của Ngũ lực,
và là yếu tố thứ nhất của 7 yếu tố của Giác ngộ.
Đức Phật đã giảng Niệm trong Bát
Chánh Đạo như sau:
“Chánh niệm: Chữ Hán Việt, "Niệm 念 “ gồm
ở trên có chữ kim 金 hay kim: 今 có nghĩa là hiện tại, bây giờ; và ở dưới là chữ tâm 心 có nghĩa là
trái tim, trong lòng. Như vậy chữ niệm có nghĩa là nghĩ, nhớ, mong trong hiện tại.
(tiếng Pali là Sati, tiếng Anh là mindfulness).
Niệm còn có nghĩa là chú tâm nghĩ ngợi.
Trong Pháp Hoa Kinh 法 華 經 có câu:
"Đãn nhất tâm niệm Phật" " 但一心念佛 , nghĩa là chỉ
một lòng niệm Phật.
Niệm còn có một nghĩa nữa là đọc, tụng.
Ví dụ: niệm kinh 念 經 nghĩa là đọc/tụng kinh; niệm thư 念 書 nghĩa là đọc sách; niệm Phật 念 佛 là tưởng nhớ đến
danh hiệu Phật.
Niệm (Hán, 念, Pa. Sati, Srt. Smriti, Anh. mindfulness) là những gì đang gợi lại
trong tâm thức ở từng giây phút hiện tại mà không có sự can thiệp của phê phán,
tâm thức thấy "sự vật như là nó thật có", tức là không có sự phê phán
hoặc tốt hoặc xấu, hoặc không tốt không xấu. Chánh niệm (Right mindfulness) là
luôn nghĩ nhớ đến điều lành nên làm, điều ác nên tránh.
Chánh niệm có nghĩa là phải làm cho đời
sống của chúng ta gắn liền với những gì mà ta đang làm trong hiện tại. Ví dụ:
khi ăn thì ta chú tâm ăn, khi đọc sách thì ta chú tâm đọc, khi đọc Kinh Phật
thì ta chú tâm và kinh Phật, Khi đang lái xe thì chú tâm vào việc lái xe, khi rửa
chén thì chú tâm vào việc rửa chén.
Chánh niệm khiến chúng ta gợi lại những
điều trong quá khứ, nhất là để tâm vào những điều ta luyến tiếc. Chánh niệm khiến
chúng ta nghĩ đến tương lai, nhất là những điều chúng ta đang lo lắng. Rồi
Chánh niệm giúp ta trở lại giây phút hiện tại để chú ý vào những điều ta đang
muốn và đang xảy ra trong hiện tại và tìm ra một giải pháp thích hợp.
Đức Phật đã thực hành chánh niệm khi Ngài
quan sát lại tư tưởng của Ngài, những tình cảm của Ngài, tình trạng sức khỏe của
thân xác Ngài và tâm thức của Ngài. Rồi sau đó Ngài tìm "con đường tu
hành" thích hợp.
Như vậy, điểm chính của Chánh niệm là
không phê phán những trải nghiệm tinh thần như là điều tốt hay như là điều xấu,
như là điều muốn làm hay như là điều không muốn làm, như là một điều phải làm
hay như là một điều không nên làm. Nói khác, Chánh niệm giúp ta nhận thức
"sự vật như là nó có." Rồi nhờ Chánh tinh tấn trợ lực Chánh niệm để thúc
đẩy những ý niệm tốt lành được hướng về con đường từ bi hơn.
Trong các tôn giáo khác cũng có những giờ
phút suy niệm, nhưng cách thực hành thì khác chánh niệm của Phật giáo.
Ngày nay, Chánh niệm (Right Mindfulness)
đã được khoa tâm lý trị liệu áp dụng. Các trường Đại học Y khoa ở Âu Mỹ đã dùng
"con đường Chánh niệm" để trị các bệnh tâm thần như căng thẳng
(stress), trầm cảm (depression), âu lo (anxiety) ...Chánh niệm đã giúp bịnh
nhân nhìn thấy những gì ở quá khứ hiện ra trong hiện tại, hoặc tưởng tượng những gì ở tương lai hiện ra trong
hiện tại như là nó đã thật sự xảy ra một cách không phê phán, hay so sánh với
cái khác. Rồi bịnh nhân lần lần không còn bám víu vào cái mình thích và không
tránh né những cái mình không thích. Chánh niệm làm giảm dần, và làm biến mất
lòng ham muốn, giận dữ, lo sợ, ảo tưởng ... của bịnh nhân, và cuối cùng đem đến
một tâm bình an, một trạng thái tốt đẹp.
Chúng ta nên áp dụng Chánh niệm mỗi khi
ta có sự giao động trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta để thân tâm được an lạc.
(Bát Chánh Đạo, tr. 6)
4.- Định lực ( Srt. Samadhi-bala, Av. Concentration power) là sức
mạnh do định căn giúp ta tập trung tư tưởng vào một việc/ một vấn đề nào một cách
thâm sâu và sáng suốt. Khi đọc sách thì phải tập trung vào việc đọc sách, không nghĩ ngợi lung tung, khi ăn cơm thì phải tập
trung vào việc ăn cơm . . .
Định là con đường thứ 8 của Bát Chánh
Đạo. Đức Phật đã giảng như sau:
“Chánh định:
Định (定) có nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì,
vào một đối tượng gì, vào một điểm gì; lúc ấy tinh thần ở trong trạng thái thuần
nhất và không giao động. Đạo Phật có phép tu khiến cho tâm tĩnh lặng, không vọng
động, gọi là "định"; ví dụ: nhập định 入定, thiền định (禪 定).
Chánh định là tập trung tư tưởng vào một
vấn đề gì tốt lành như lòng từ bi, như sự
vô thường của cuộc đời. Tâm thần của chúng ta được coi như là một tấm gương
dính bụi, Chánh định coi như lau chùi tấm gương để tấm gương được sáng tỏ. Nói
khác, Chánh định giúp cho tâm thần được sáng sủa để nhìn sự vật như là nó hiện
hữu trong thực tại.
Chánh định giúp chúng ta nhìn thấu triệt
tính vô thường, tính duyên khởi của mọi sự vật, mọi hoàn cảnh ở đời để giúp
chúng ta làm giảm những lo lắng, sợ sệt, nghi ngờ, tham luyến, giận dữ và ảo tưởng
về một việc hay một vấn đề nào đó; và nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ bình an
hơn, sẽ khéo léo hơn, và sẽ từ bi hơn để đem lợi ích cho chính chúng ta và cho
người khác.
Một kỷ thuật thường được dùng cho phương
pháp chánh định một cách đơn giản là tập trung tư tưởng vào hơi thở. Hành giả
có thể chú ý vào hơi thở của mình, theo dõi hơi thở ra và theo dõi hơi thở vào.
Khi có một vọng động nào kéo đến tâm thức bởi các ý tưởng khác, bởi các hình ảnh
khác, bởi các cảm xúc khác thì hành giả đem sự chú ý của mình trở lại sự theo
dõi hơi thở mà mình đang thở. Hoặc khi có một ý nào hồi tưởng về quá khứ, hoặc
một dự phóng về tương lai xuất hiện thì hành giả phải rời những kỷ niệm trong
quá khứ, phải rời khỏi những mơ ước tương lai bằng cách đem sự chú ý, sự tập
trung vào hơi thở của mình, theo dõi, tập trung vào hơi thở đang thở ra và thở
vô. Cách thực hiện thiền định (禪 定) này gọi là "tập trung tinh thần vào một điểm"(one-pointed
mental concentration). Do cách thực hành Chánh định sẽ giúp chúng ta thực hiện
Chánh niệm ngay tức khắc.
(Bát Chánh Đạo, tr. 8)
5.-
Huệ lực (Srt. Prajna-bala, Av. Wisdom Power) là sức mạnh do huệ căn, có công
năng giúp ta nhìn một vấn đề/ một việc gì một cách sâu sắc và rõ ràng, giúp ta
nhận thức được kết quả của việc làm này. Nhờ vậy, chúng ta loại bỏ được sự sai
lầm, phát huy được lòng tin chân chánh/ chánh tín (Right Faith). Do đó chúng ta
có thể đạt được cứu cánh giải thoát, của Niết-bàn trong cõi đời này.
“ Prajna (Tàu
phiên âm là Bát-nhã) dịch là trí tuệ (wisdom). Trong tiếng Sanskrit thì chữ gốc
Jna có nghĩa là biết ( to know), được nhấn mạnh bởi tiếp đầu ngữ Pra. Như vậy,
Prajna không chỉ có nghĩa là nhận thức, sự hiểu biết bình thường mà còn là sự
hiểu biết về thực tại tuyệt đối, sự hiểu biết về mọi sự, mọi vật tận sâu thẳm.
Prajna là trí tuệ siêu việt (Perfect wisdom), là trí tuệ thâm sâu ( profound
wisdom) của các bậc giác ngộ dùng để soi sáng và quán chiếu được bản tánh của
các hiện tượng/ các pháp (dharmas), và nhận thức rõ ràng rằng các pháp đều
không có tự tánh. Prajna là trí tuệ siêu việt vượt qua khỏi thế giới hiện tượng,
vượt qua khỏi nhận thức nhị nguyên.”
(Bát-nhã Tâm Kinh – Chú giảng, tr. 15)
Kết luận:
Tất
cả 5 đức tính của Ngũ lực phải được coi là một sự kết hợp của một tổng thể đồng
nhất. Sự đồng điệu, hoà hợp, cân bằng của 5 đức tính này rất quan trọng. Cả 5 đức
tính sẽ hổ trợ lẫn nhau.
Sự cân bằng của ngũ lực ở trong tâm thần
là một điều được xem rất quan trọng không những ở Khổng giáo mà còn ở Phật giáo
nữa.
Toronto,
30 Aug. 2019
Nguyễn Vĩnh Thượng
Tài liệu tham khảo: như đã liệt kê trong các bài trước.