Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày:
I.-Các sáng tác viết bằng chữ Hán.
II.-Các sáng tác viết bằng
chữ Nôm.
III.-Kết luận về văn học
thời Trần - Hậu Trần.
Văn học thời Trần
là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400).
Văn học thời Trần tiếp nối văn học thời Lý, đã phát triển nền văn học viết song
song với nền văn học truyền khẩu trong lịch sử văn học nước ta.Trong thời nhà
Minh xâm lược (1414 – 1427), họ đã đốt nhiều sách vở của nước ta hoặc họ mang về
Tàu, nên có nhiều tác phẩm chỉ còn có cái tên tựa mà thôi.
Văn học thời Trần có những sáng tác được viết bằng chữ Hán bên cạnh đó còn
có một số sáng tác được viết bằng chữ Nôm.
I.-Các
sáng tác viết bằng chữ Hán:
1.-Thơ :
Sáng tác quan trọng của văn học thời Trần là thơ.
Có nhiều tập thơ của các vị vua như:
-Thái Tông ngư tập của Trần Thái Tông.
-Thánh Tông thi tập của Trần Thánh Tông.
-Nhân Tông thi tập của Trần Nhân Tông.
-Thủy Vân tuỳ bút của Trần Anh Tông.
-Minh Tông thi tập của Trần Minh Tông.
-Nghệ Tông thi tập của Trần Nghệ Tông.
Có nhiều thi tập của Vương hầu, quan lại và thiền sư:
-Lạc đạo tập của Trần Quang Khải.
-Đoạn sách lục của Sư Pháp Loa.
-Ngọc tiên tập của Sư Huyền Quang.
-Phi sa tập của Nguyễn Thuyên/ Hàn Thuyên.
-Tiều ẩn thi tập của Chu An/ Chu Văn An.
-Cúc hoa bách vịnh của Trương Hán Siêu.
-Giới Liêm thi tập của Nguyễn Trung Ngạn.
-Hiệp Thạch tập của Phạm Sư Mạnh.
-Băng Hồ Ngọc Hác tập của Trần Nguyên Đán.
V…V…
Thêm vào đó còn nhiều bài thơ của Phạm Ngũ Lão, Mạc Đỉnh Chi, Đặng Dung
v… v…
Nội dung các bài thơ phản ảnh tình cảm hiện thực và tình yêu đất nước đậm
đà.
Sau đây là vài bài thơ chữ Hán tiêu biểu:
*Trần Thánh Tông (1240 – 1290):
*-Bài Hạ Cảnh
-Nguyên văn chữ
Hán:
窈窕華堂晝影長,
荷花吹起北風涼。
園林雨過綠成幄,
三兩蟬聲鬧夕陽。
-Phiên âm Hán Việt:
Hạ cảnh
Yểu điệu hoa đường trú ảnh trường,
Hà hoa xuy khởi bắc phong lương.
Viên lâm vũ quá lục thành ác,
Tam lưỡng thiền thanh náo tịch dương.
-Dịch nghĩa:
Cảnh mùa Hè.
Trong chốn thềm hoa thăm thẳm, bóng
nắng rủ dài,
Mùi sen thơm đưa hương mát thổi vào cửa
sổ phiá Bắc.
Ngoài vườn rừng mưa vừa tạnh, trên vườn
như phủ một tấm thảm xanh biếc,
Vài ba tiếng ve kêu dưới bóng trời chiều.
-Dịch thơ:
Cảnh mùa hè
Ngày dài thăm thẳm bóng thềm hoa,
Mát dịu mùi sen thổi trước nhà.
Mưa tạnh, trên vườn màn biếc phủ,
Tiếng ve réo rắt dưới trời tà.
(Ngô Tất Tố dịch)
*-Bài Cung Viên Xuân Nhật Ức Cựu
-Nguyên văn chữ Hán:
宮門半掩徑生苔,
白晝沈沈少往來。
萬紫千紅空爛熳,
春花如許為誰開。
-Phiên âm Hán Việt:
Cung viên xuân nhật
ức cựu.
Cung môn bán yểm kính sinh đài,
Bạch trú trầm trầm thiểu vãng lai.
Vạn tử thiên hồng không lạn mạn,
Xuân hoa như hử vị thuỳ khai?
-Dịch nghĩa:
Ngày xuân trong vườn thượng
uyển nhớ người xưa.
Vườn đó, ngoài cửa Cung hé mở, lối đi rêu mọc,
Giữa lúc ban ngày mà cảnh buồn hiu ít có người đi lại.
Thế nhưng muôn tía nghìn hồng vẫn đua tươi rực rỡ,
Hoa xuân kia có còn vì ai mà nở mãi mãi không?
-Dịch thơ 1:
Vườn cung ngày Xuân nhớ người cũ.
Cửa ngõ lờ mờ dấu bụi rêu,
Chầm chậm ngày bạc vẻ đìu hiu.
Đầy vườn rực rỡ hồng chen tía,
Hoa khéo vì ai vẫn nở nhiều.
(Ngô
Tất Tố dịch)
-Dịch thơ 2:
Cửa cung khép mở, lối
rêu nhoà,
Chầm chậm ngày trôi, vắng lại qua.
Hồng tiá luống phô muôn sắc thắm,
Vì ai xuân nở đẹp trăm hoa?
(Bản dịch của Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Toàn Việt
thi lục (tập I), Lê Quý Đôn, Hà Nội: NXBVăn Học, 2019)
*Trần Nhân Tông (1258 – 1308)
Vua Trần Nhân Tông hai lần lãnh đạo kháng chiến
thắng quân Nguyên Mông, đứng trước buổi sáng mùa xuân, tâm hồn Ngài rung động
trước cảnh đôi bướm trắng đang theo đuổi nhau, bay lượn trước những bông hoa rực rỡ. Vẻ xuân
thật đẹp trong
*-bài Xuân Hiểu:
-Nguyên văn chữ
Hán:
-Phiên âm Hán Việt:
Xuân hiểu
Thuỵ khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.
-Dịch nghĩa:
Buổi sáng sớm mùa Xuân.
Sau khi ngủ dậy, mở cánh cửa sổ,
Không ngờ ngày xuân đã tới.
Một đôi bướm trắng,
Đang theo nhau bay đến những bông hoa.
-Dịch thơ:
Buổi sáng sớm mùa Xuân.
Ngủ dậy ngỏ song
mây,
Xuân về vẫn chửa hay.
Song song đôi bướm trắng,
Phấp phới sấn hoa bay.
(Ngô
Tất Tố dịch)
*-Bài Thiên Trường vãn Vọng
-Nguyên văn chữ Hán:
村後村前淡似煙, -Phiên Âm Hán Việt: Thiên Trường vãn
vọng Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên, -Dịch
nghĩa: Đứng ở Phủ Thiên Trường trông
ra xa xa. Đứng ở Thiên Trường, trông ra xa, nơi trước làng sau đều lờ mờ như đám
khói nhạt. -Dịch thơ: Phủ Thiên Trường buổi
chiều đứng trông. Trước xóm, sau
thôn tựa khói lồng, |
*Trần Minh Tông (1298 – 1356)
*-Bài
Bạch Đằng Giang:
-Nguyên văn chữ Hán:
挽雲劍戟碧巑岏,
海唇吞潮捲雪瀾。
綴地花鈿春雨霽,
撼天松籟晚霜寒。
山河今古雙開眼,
胡越贏輸一倚欄
-Phiên Âm Hán Việt:
Bạch Ðằng giang
Vãn vân kiếm
kích bích toàn ngoan,
Hải thẩn thôn triều quyển tuyết lan.
Xuyết địa hoa điền xuân vũ tễ,
Hám thiên tùng lại vãn sương hàn.
Sơn hà kim cổ song khai nhãn,
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.
Giang thuỷ đình hàm tà nhật ảnh,
Thác nghi chiến huyết vị tằng can.
-Dịch nghĩa:
Sông Bạch Đằng.
1.-Núi xanh
biên biếc cao ngất trời, tua tủa như gươm giáo kéo lấy mấy tầng mây,
2.-Hải thần như nuốt lấy thủy triều cuộn thành những làn sóng bạc đầu như tuyết.
3.-Hoa rơi tô điểm mặt đất lúc mưa xuân vừa tạnh,
4.-Tiếng thông reo rung chuyển bầu trời khi sương chiều lạnh lẽo.
5.-Non sông này xưa nay đã hai lần mở mắt,
6.-Cuộc được thua giữa Hồ Việt thoáng qua như đứng tựa vào lan can.
7.-Nước sông in bóng mặt trời chiều đỏ ối,
8.-Ngỡ như là máu chiến trường năm xưa vẫn chưa Khô.
-Dịch thơ:
Sông Bạch Đằng.
Chạm mây gươm giáo,
xanh von vót,
Sóng tuyết khi đầy lại lúc vơi.
Mưa tạnh hoa phô vàng mặt đất,
Sương lừa thông réo tiếng vang trời.
Non sông kim cổ hai lần dậy,
Hồ Việt hơn thua, một thoáng thôi.
Chan chứa dòng sông ngầu bóng xế,
Ngỡ là máu giặc hãy còn tươi.
(Bản dịch của Đào Phương Bình & Nam Trân
Nguồn: Thi Viện Website, Internet)
Phụ thêm: Nhạc tiền
chiến (1938 – 1954), sử ca.
Độc giả có thể nghe tốp ca trên youtube.
Trên Sông Bạch Đằng
Tác giả: Hoàng Quý
Trên sông
Bạch Ðằng
Quân Nam ầm reo
Sóng nước vang đưa
Bao con thuyền mành trôi theo
Cờ bay gươm tuốt ra, quân vùng lên
Làm cho đuổi tan hết quân Nguyên
Ðến bây giờ mỗi khi đi trên sông Bạch Ðằng
Thì anh em ta vui ca rằng :
Con sông Bạch Đằng
nước trôi triền miên
có biết đâu bao năm qua là mộ quân Nguyên
ai nhớ thương
cho quân Việt hết
Ðến bây giờ mỗi khi đi trên sông Bạch Ðằng
Thì anh em ta vui chiến thắng
*Trần Quốc Tuấn/Trần
Hưng Đạo (1230 – 1300):
Năm 1257, lần đầu
quân Nguyên Mông sang đánh nước ta, Trần Quốc Tuấn được cử cầm quân ở biên thùy
phiá Bắc. Quân Nguyên Mông lại đem quân đánh nước ta 2 lần nữa vào năm 1285 và
1287, Ông đã được vua Trần Nhân Tông cử làm “Tiết Chế Thống Lĩnh các đạo quân”, hai lần đều đem thắng lợi vẻ
vang cho nước Đại Việt.
Năm 1285, ông đã
viết bài hịch “Dự Chư Tỳ Tướng Hịch Văn”
(Bài Hịch Dụ các Tỳ Tướng) trong cuộc kháng chiến lần thứ ba (1284 – 1285) với
quân Nguyên Mông. Bài hịch đưa cho tướng sĩ là lời khuyến dụ các tướng sĩ trước
giờ phút thử thách quyết liệt: 50 vạn quân Nguyên Mông chuẩn bị tiến công xâm lăng
nước ta.
Trong bài “Hịch Tướng Sĩ”, Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn nêu gương các trung thần nghĩa sĩ đã
xả thân cứu lấy quê hương. Ngài cũng kể tội của giặc xâm lược, nêu cao lòng tự
hào dân tộc. Các tướng sĩ chỉ có một con đường là quyết tâm diệt giặc để bảo vệ
đất nước. Bên cạnh bài hịch này, Ông đã viết cuốn “Binh Thư Yếu Lược” là những điều cốt yếu được tuyển chọn từ các
binh thư của các nhà quân sự để dạy các tướng sĩ cách dụng binh, cuốn sách này
nay đã thất truyền.
(Xem
thêm: nguyên văn chữ Hán bài “Dụ Chư
Tỳ Tướng Hịch Văn” và bản dịch “Bài
hịch dụ các Tỳ Tướng” của Ngô Tất Tố trong quyển Văn Học đời Trần, Hà Nội: Mai Lĩnh, 1942. Saigon: Khai Trí in lại,
1960. USA: Đại Nam in lại, 1980; tr. 104 – 120).
*Trần Quang Khải (1241 – 1294)
*-Bài Tòng
giá hoàn kinh
Tòng giá về kinh (còn được gọi là Tụng giá hoàn
kinh sư, có nghĩa là Phò vua về kinh) là một
bài thơ do Trần Quang Khải (1241-1294) viết sau khi quân dân nhà Trần chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai. Bài thơ nói về
cảm xúc một vị tướng trên đường theo xa giá vua Trần Nhân Tông và Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông trở về kinh đô, đồng thời ca ngợi đội quân nhà Trần trong việc bảo
vệ non sông đất nước. Hiện còn hai bản dịch lưu truyền, một của Trần Trọng Kim, một của Ngô Tất Tố .
-Nguyên văn chữ Hán:
從 駕 還 京
奪 槊 章 陽 渡
擒 胡 鹹 子 關
太 平 宜 努 力
萬 古 此 江 山
-Phiên âm Hán Việt:
Tòng giá hoàn kinh
Đoạt sáo(1) Chương Dương độ(2)
Cầm Hồ Hàm Tử quan(3)
Thái bình tu trí
lực
Vạn cổ thử giang
san
Chú Thích:
(1)- Đoạt sáo: cướp
giáo, ý chỉ việc đi đánh giặc.
(2)- Chương Dương độ: bến đò Chương Dương, nơi Trần Quang Khải đánh Thoát
Hoan.
(3)-Hàm Tử quan: ải Hàm Tử, nơi Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô.
-Dịch nghĩa:
Phò vua về Kinh
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương,
Bắt quân Hồ ở ải Hàm Tử.
Thời thái bình nên gắng hết sức,
Muôn đời giữ vững giang san.
-Dịch thơ 1:
Phò vua về Kinh.
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch)
-Dịch thơ 2:
Phò vua về Kinh.
Bến Chương cướp giáo giặc,
Ải Hàm bắt quân Hồ.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước vẫn muôn thuở.
(Ngô Tất Tố dịch)
2.-Phú:
Phú là một thể văn
vần, có từ thời nhà Hán nhưng thể phú thông dụng nhất ở Việt Nam là loại phú được
đặt ra từ đời Đường nên còn gọi là Đường phú.
Văn học thời Trần có
bài phú viết bằng chữ Hán và có bài phú viết bằng chữ Nôm/ chữ Quốc âm:
-Lê Quý Đôn còn để
lại 13 bài phú chữ Hán trong Quân hiền
phú tập.
-Trương Hán
Siêu với bài Phú sông Bạch Đằng: ca
ngợi chiến công lịch sử và đề cao tinh thần dân tộc.
Nội dung các bài phú
nói chung đều bàn đến chính trị, xã hội, đạo lý Nho gia: tu, tề, trị và bình.
3.-Văn sử ký:
a.-Văn sử ký viết trong nước:
-Đại Việt Sử
Ký của Lê Văn Hưu viết xong vào năm 1272, viết theo phương pháp biên niên,
ghi chép từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng (1207 đến 1224). Bộ sử này đã thất lạc.Nay
chỉ còn một số trích văn trong cuốn Đại
Việt Sử Ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên,
cuốn này viết bằng chữ Hán dưới thời Lê Thánh Tông, ghi chép lịch sử Việt Nam từ
đời Kinh Dương Vương năm 287 tr. CN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê.
b.-Văn sử ký do người Việt
viết ở nước ngoài/ bên Trung Hoa:
1.-Việt Sử Lược, tác giả khuyết
danh, còn có tên là Đại Việt Sử Lược, viết vào khoảng năm 1377 –
1388, viết bằng chữ Hán, ghi chép từ thời Triệu Đà đến Lý Chiêu Hoàng, viết
theo lối biên niên, cuối sách có phụ lục niên hiệu các vua đời Trần, bản Hán văn
được lưu trử bên Trung Hoa, còn lưu truyền cho đến nay.
Bộ sách
Việt Sử Lược gồm có 3 tập:
-Tập
1: từ thượng cổ đến nhà Tiền Lê ( -
1009).
-Tập 2: từ Lý Thái Tổ (1009 – 1028) đến Lý Nhân Tông
(1072 – 1127).
-Tập 3: từ Lý Thần Tông (1127 – 1138) đến Lý Huệ
Tông (1211 – 1224).
-Phụ bản (b): chép niên hiệu các vua nhà Trần.
Có hai dịch giả quyển Việt Sử Lược:
1.- do Trần Quốc Vượng dịch và chú giải, Hà Nội: NXB Khoa Học Xã Hội, 1983.
2.-do Nguyễn Gia Tường dịch, HCM: NXB TP HCM, 1993.Chuyển sang ấn bản điện tử bởi Công Đệ và Lê Bắc, 2001.
2.-An Nam Chí Lược 安南志略 (Sơ lược về An Nam/Việt
Nam) của Lê Tắc ( ? - ?), đây là một
tư sử tức là quyển sử do tự Lê Tắc viết
mà không phải do lệnh của triều đình, sách sử do các sử quan viết theo lệnh của
triều đình gọi là chính sử, bộ sách sử
này được viết bằng văn xuôi chữ Hán vào
năm 1335 tại Trung quốc (vào đời Trần ở Việt Nam, vào đời Nguyên ở bên
Tàu), nội dung sách ghi chép hỗn hợp về
địa lý, lịch sử, văn hóa, v.v... của An Nam viết từ thời bắt đầu đến
cuối đời Trần, bộ sử này gồm có 20 quyển, nhưng quyển thứ 20 bị thất lạc, nay
chỉ còn 19 quyển:
Bản dịch tiếng Quốc ngữ
do Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, 1960.
Lời giới thiệu của L.M
Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, 22 tháng 4 năm 1960.
Nhà xuất bản: Viện Đại
Học Huế,1961.
Chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc, 2001
Nguồn: Viện Việt Học website đăng lại.
Hiện nay ở Việt Nam
đã có bản dịch mới, được hiệu đính và chú thích, đã xuất bản gồm cả phần chữ
Hán và chữ Quốc ngữ.
4.-Truyện Ký
Truyện ký là một thể
loại thuộc loại truyện kể gồm ba thể truyện, sử và bi ký. Trong truyện kể, chúng
ta thấy bắt đầu hình thành một cốt truyện, tình tiết hoặc đơn giản hay phong phú.Các
dạng truyện ký trong văn học nhà Trần như thực lục, hành trạng, truyền đăng v.
. .v. . .
a.-Thiền
Uyển Tập Anh Ngữ Lục, tác giả: khuyết danh, chép sự tích các thiền sư nước
ta từ đời Trần trở về trước.
b.-Tam Tổ Thực Lục,
tác giả: khuyết danh, ghi chép sự tích ba vị tổ của phái thiền Trúc Lâm: 1.-Điều
Ngự Trần Nhân Tông (Đệ nhất tổ); 2.-Pháp Loa (Đệ nhị tổ); 3.-Huyền Quang (Đệ
tam tổ) , cùng với nhiều bài thơ của ba vị này.
c.-Việt Điện U
Linh, tác giả: Lý Tế Xuyên, ông là một danh sĩ (khoảng cuối thế kỷ 13 đến đầu
thế kỷ 14). Tựa có nghĩa: - Việt điện
là cõi đất quanh kinh thành nước Việt; - u
linh là linh thiêng, sách ghi chép những gương sáng về tinh thần yêu nước,
thương dân của các vị thần ở các đền miếu trong kinh thành và vùng phụ cận, xuất
bản khoảng năm 1329.
d.-Lĩnh Nam Chích
Quái, tác giả: Trần Thế Pháp, ông là một danh sĩ đời nhà Trần. Tựa sách có
nghĩa là chọn lựa những truyện quái dị ở đất Lĩnh Nam. Sách ghi chép các truyền
thuyết và cổ tích dân gian Việt Nam. Sách này đã thất lạc.
e.-Nam Ông Mộng
Lục, tác giả: Lê Trừng tức Hồ Nguyên Trừng viết ở bên Tàu. Tựa có nghĩa là
những giấc mộng của Nam ông (Nam ông = ông già nước Nam). Ông là con trưởng của
Hồ Quý Ly. Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược thất bại, cha con họ Hồ
bị bắt sang Tàu. Sách có nội dung ghi chép những chuyện lịch sử và văn hoá xã hội
nước ta. Tác giả ghi lại những con người tài đức ở nước Nam mà tác giả không còn
được nhìn thấy nữa, nên ông coi đó như là một giấc mộng; ông lấy ý nghĩa này mà
đặt tên cho tựa quyển sách. Sách gồm có 28 truyện ngắn các chuyện tự sự linh động
và ngắn gọn. Tuy sáng tác ở bên Tàu, nhưng tác giả - Hồ Nguyên Trừng- đã ghi lại
những tình tự dân tộc nên có thể liệt kê tác phẩm này vào nền văn học đời Trần.
Một tình trạng
tương tự: sau năm 1975, tại hải ngoại, có nhiều tác phẩm được người Việt Nam sáng
tác bằng tiếng Việt, hoặc bằng tiếng Anh, Pháp . . .; nếu tác phẩm nào nói lên
tình tự dân tộc, biểu hiện được linh hồn dân tộc và tình thần mến yêu dân tộc,
thì dù diễn tả bằng Việt ngữ, Anh hay Pháp ngữ … đi nữa, các tác phẩm đó đều xứng
đáng được xếp vào dòng văn học hải ngoại
trong kho tàng văn học Việt Nam.
5.-Văn bia:
Văn bia thời Lý thường
ca ngợi cảnh đẹp của chùa chiền, công trạng của vua chúa và các quan đại thần.Như
Ngưỡng Sơn Linh Xứng Tự Bi Minh (nghĩa
là: Tấm văn bia tại chùa Linh Xứng ở trên núi Ngưỡng Sơn) của thiền sư Hải Chiếu
đã ca ngợi vị anh hùng xuất chúng Lý Thường Kiệt trong lịch sử dân tộc Việt
Nam.
Nhưng ngược lại, văn
bia thời Trần có nhiều cái chỉ trích các tệ nạn mê tín, dị đoan của Phật giáo trong
đời sống xã hội vào thời bấy giờ. Như Trương Hán Siêu trong bia Dục Thuý Sơn Linh Tế Tháp Ký (nghĩa là Bài
ký ở tháp Linh Tế trên núi Dục Thuý) đã lên án sự hủ hoá của Phật giáo.
6.-Văn nghị luận:
a.-Về Phật học:
1.-Khoá Hư
Lục của vua Trần Thái Tông, chủ trương sanh, lão, bệnh, tử là quy luật tự
nhiên, không ai tránh khỏi. Vua phản đối lối tu khổ hạnh, vua quan niệm mọi
sinh hoạt hằng ngày như; nói, yên lặng, động, tỉnh, ăn, uống, ngủ, bài tiết đều
đúng với lời Phật dạy, dứt bỏ các điều này là cái sai lầm.
2.-Thiền
Tông Chỉ Nam của vua Trần Thái Tông, chủ trương Phật giáo và Nho giáo có chỗ
khác nhau nhưng có thể dung hợp với nhau.
3.-Tham
Thiền Yếu Chỉ của Đệ nhị tổ Pháp Loa soạn năm 1322 theo lời yêu cầu của Thái
Thượng Hoàng Trần Minh Tông.
b.-Về Nho học:
1.-Tứ Thư
Thuyết Ước của Chu An / Chu Văn An, thuyết về đạo Nho, nay không còn.
2.-Minh Đạo
Lục do Hồ Quý Ly viết năm 1392. Hồ Quý Ly rất tôn sùng đạo Nho nhưng tư tưởng
rất phóng khoáng. Nội dung sách này là ông đánh giá lại địa vị của Khổng Tử, ông
khen Chu Công hơn Khổng Tử. Ông phê phán các thánh hiền Nho giáo của Trung Hoa,
ông cho các bậc hiền triết Trung Hoa học rộng nhưng không chú trọng đến thực tế.
Thái độ bài bác cổ nhân của Hồ Quý Ly khiến cho các Nho gia đương thời thù ghét
ông.
c.-Về binh học:
Binh Thư Yếu Lược và Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, nay không
còn.
7.-Nghề hát
tuồng:
Tuồng và Chèo đã ra đời vào thời Trần.
Trong thời chống giặc
Nguyên Mông Cổ, nhà Trần có bắt được một người Trung Hoa tên là Lý Nguyên Cát, ông
này xin ở lại nước ta. Ông đã viết truyện và dạy lối hát tuồng cho người Việt. Lúc đầu toàn là tuồng Tàu, kế đó tuồng được
dịch ra tiếng Việt để người bình dân có thể hiểu được. Tuồng chịu ảnh hưởng
Trung Hoa rất nhiều trong cách diễn xuất, chủ đề, lời đối đáp. Đã có nhiều buổi
hát tuồng diễn ra ở trong cung đình, nhiều vua, quan rất thích. Nhà Trần đã du
nhập nghề hát tuồng từ đó.
Chèo có xuất xứ từ tuồng. Có lẽ do các Nho sĩ sống trong dân gian sáng
tác. Chèo được gây cảm hứng từ tuồng, nhưng đề tài gần gủi với đa số dân chúng
như đề tài về lịch sử, thần thoại, truyện kể và đời sống xã hội Việt Nam.
II.-Các sáng tác viết bằng chữ Nôm:
1.-Định nghĩa chữ Nôm:
Chữ Nôm
được hình thành dựa trên cơ sở của chữ Hán để ghi tả tiếng nói của người Việt
Nam. Chữ Nôm là một thứ chữ xuất hiện sớm trong lịch sử của dân tộc ta, có lẽ vào
thời Triệu Đà (năm 207 - 111 trước Tây lịch), nhưng mãi đến đời Trần, Hàn Thuyên
và các nhà làm văn thơ chữ Nôm mới đặt ra các nguyên tắc cấu tạo nên chữ Nôm một
cách rõ rệt.
Chữ
Nôm có hai loại: chữ Nôm-Việt và chữ Nôm-Tày. Chữ Nôm-Việt được sử dụng bởi
người Việt ở miền đồng bằng, tất cả những tác phẩm viết bằng chữ Nôm ở trong văn
học Việt Nam đều dùng chữ Nôm-Việt. Chữ Nôm-Tày được sử dụng bởi người miền núi
là các dân tộc Tày, Nùng, nhiều tác phẩm và thơ văn dân gian của họ được ghi chép
bằng tiếng Nôm-Tày.
“Chữ Nôm là thứ chữ dân tộc của ta đã được
dùng trong gần mười thế kỷ, mãi đến gần đây, cuối thời Pháp thuộc nó mới trở
thành, cũng như chữ Hán, một thứ cổ tự không dùng trong đời sống hàng ngày nữa.”
(Đào Duy Anh, Chữ Nôm: Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến,
Hà Nội: Khoa học Xã hội, 1973, tr. 9)
Theo
Gs Phạm Văn Diêu:
“Hiện nay, dõi theo dòng lịch sử
trước đời Trần để tìm dấu tích chữ Nôm, ta chỉ biết hai điều này là đích thực:
1.-Vào thế kỷ thứ VIII, chữ bố
là cha, chữ cái là mẹ là tiếng Nam thuần tuý được dân gian dùng đặt danh hiệu truy tôn
Phùng Hưng sau khi Người mất, ấy là: Bố
Cái Đại Vương để tỏ lòng ái mộ đối với
Người là một vị anh hùng cứu quốc đã đánh tan quân đô hộ Tàu năm 791.
2.-Đến thế kỷ thứ X,
vua Đinh Tiên Hoàng sáng nghiệp nhà Đinh, từng ghép một tiếng Nam là cồ trong tên đặt quốc hiệu
nước ta vừa độc lập: Đại Cồ Việt.
Những
chữ bố cái trong Bố Cái Đại
Vương, cồ trong Đại Cồ Việt đều là chữ
nôm trong những tôn hiệu, danh hiệu trọng đại, tất phải có chữ để viết, mà chữ ấy
là chữ nôm. Vậy thế kỷ thứ VIII và thế kỷ thứ X đã có chữ nôm.
Sự thực, bút tích, nguyên thư,
nguyên bản văn nôm đời Trần đã mất mát, tàn huỷ từ xưa trước. Song những sách sử
cũ từng biên chép về các nhà làm thơ phú nôm đầu tiên, tức là cũng đã tỏ sự
thông dụng của chữ nôm trong đời Trần. Vả lại, nay có số tác phẩm truyền là của
đời Trần cũng có thể tin được. Thêm vào đó, là hiện ta còn một tự tích cụ thể,
chắc chắn và cổ nhất về chữ nôm đời Trần là tấm bia đề năm Thiệu Phong thứ III
(1343) đời Trần Dụ Tông, trên có khắc chừng 20 tên xã thôn bằng chữ nôm,tìm thấy
ở Hộ Thành sơn, tỉnh Ninh Bình. Hơn nữa, từ thế kỷ XIX đến nay vẫn hãy còn giữ
được áng thơ nôm xưa cổ nhất là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trải, người Trần mạt
và Hậu Lê. Ta có thể nói rằng sự thông dụng, phát đạt cho chữ nôm trong một đời
Trần đã là một biểu hiện của tinh thần độc lập của dân tộc ta đang ở vào một thời
kỳ toàn thịnh, dồi dào, oai hùng, và đó là tất cả ý nghĩa lịch sử của chữ nôm,
văn nôm.”
(Phạm Văn Diêu, Văn học Việt Nam,
quyển Thượng, Saigon: Tân Việt, 1960. USA: NXB Xuân Thu in lại, 1993)
2.-Những nhà thơ Nôm đầu tiên:
a.-Nguyễn Thuyên / Hàn Thuyên đã đậu Thái
Học Sanh vào đời vua Trần Thái Tông (1225 – 1282), có tài làm thơ phú bằng chữ
Quốc âm / chữ Nôm, gây thành phong trào thơ Nôm.
Theo sách
sử Xưa thì vào tháng 8 năm 1282 dưới đời Trần
Nhân Tông, có con cá sấu đến sông Phú Lương (tức sông Nhị Hà). Vua Trần Nhân Tông
sai quan Hình Bộ Thượng Thư là Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống sông. Cá sấu
liền đi. Vua thấy giống sự tích Hàn Dũ bên Tàu, nên ban cho Nguyễn Thuyên họ Hàn,
do đó nhiều người còn gọi ông là Hàn Thuyên. Nhưng không thấy sử chép là bài văn
viết theo thể nào và viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm.
b.-Nguyễn Sĩ Cố làm Nội Thị Học Sĩ đời Trần
Thánh Tông (1258 – 1278) có tài làm thơ phú Quốc âm. Tác phẩm của ông đã thất
truyền.
c.-Vua Trần Nhân Tông sáng tác bài thơ phú
Cư trần lạc đạo (nghĩa là Vui đạo ở cõi
trần) theo quan niệm của phái Thiền tông, và bài Đắc thú lâm truyền thành đạo.
d.-Chu An/ Chu Văn An (? – 1370) là một
danh nho đời Trần, ông rất có uy tín. Sau khi từ quan, ông về nhà đọc sách, mở
trường dạy học, đề cao Khổng Mạnh, bài xích mê tín dị đoan và tà thuyết. Ông có
nhiều người học trò giỏi, có vị làm quan lớn như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát. Vua
Trần Minh Tông (1314 – 1329) nghe tiếng thơm của ông, bèn cho vời vào Kinh làm Quốc tử giám Tư nghiệp để dạy các Thái Tử.
Chu Văn
An, tên thật là Chu An, là một nhà giáo, thầy thuốc, quan viên Đại Việt cuối đời
Trần. Sau khi mất, ông được vua Trần phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen
gọi ông là Chu Văn An hay Chu Văn Trinh.
e.-Hồ
Quý Ly không những là một anh hùng lỗi lạc về chánh trị, kinh tế, quân sự mà
còn rất giỏi về văn học nghệ thuật. Ông rất sùng đạo Nho. Thơ văn Hồ Quý Ly bị
thất truyền.
Hiện nay các sáng tác bằng chữ Nôm
dưới thời Trần còn lại rất ít.
3.-Một số tác phẩm được
phỏng đoán đã xuất hiện vào thời Trần và Hậu Trần như sau:
a.-Truyện Trê Cóc
Tác giả là một ẩn sĩ đã giận việc Thái sư Trần Thủ Độ cưỡng bách vua Trần
Thái Tông, vì chưa có con, phải lấy chị dâu là Thuận Thiên Công Chuá, vợ của Trần
Liễu, khi ấy đang có thai để lấy con của anh còn trong bụng mẹ làm con mình,
nên ông đã viết nên áng văn này:
“Tuy cùng một kiếp phù sanh,
Giống
nào giống ấy tranh giành làm chi.”
(Lời Nhái Bén bảo Cóc)
. .
. . . . .
. . . . . .
Kết luận ở cuối truyện:
“Ngẫm xem thế sự nực cười,
Cũng là dở
một trò chơi đấy mà.”
(Truyện
Trê Cóc)
Truyện có 398 câu thơ theo
thể lục bát, hai nhân vật là con cá Trê và con Cóc, được đặt cho đề của truyện.
Đây là tập thơ ngụ ngôn. Truyện Trê Cóc đã phản ảnh thực trạng của xã hội phong
kiến thời đó: cường hào, ác bá, quan lại sách nhiểu . . .
b.-Truyện Vương Tường
Truyện
được viết bằng thơ Đường luật, tác giả: khuyết danh, có 49 bài thơ.
Vương
Tường tức là Vương Chiêu Quân, một cung nữ đời Hán Nguyên Đế (48 – 33 tr. CN).
Nàng cậy mình có nhan sắc xinh đẹp nên nàng không đút lót tiền cho họa công Mai
Diên Thọ, vì vậy Mai Diên Thọ thù ghét và vẽ hình nàng xấu đi để dâng lên nhà
vua. Do đó nàng không được vua để ý tới. Năm 33 tr. CN, chúa Hung Nô yêu cầu
vua Hán gả người đẹp. Vua Hán hứa gả Vương Tường cho chúa Hung Nô. Trước khi vĩnh
biệt, nhà vua cho vời Chiêu Quân lên bệ kiến, mới biết nàng là một trang tuyệt
sắc giai nhân, và biết rõ Diên Thọ lừa dối vua. Nhà vua toan giữ Vương Tường lại,
nhưng triều thần can gián. Nàng phải từ giả đất Hán để về đất Hồ ở phương Bắc.
Sau khi nhập cung chúa Hung Nô, Vương Tường tự vận. Các văn nghệ sĩ Trung Hoa
thường làm văn thơ ca nhạc vịnh nàng Chiêu
Quân cống Hồ.
Truyện Vương
Tường lấy việc Chiêu Quân cống Hồ làm đề mục để chỉ trích việc vua Trần Anh Tông
đem công chúa Huyền Trân gả cho vua
Chiêm Thành vào năm 1306.
Thi nhân
khóc giai nhân Chiêu Quân để khóc cho Công chúa Huyền Trân: “Nước non ngàn dặm ra đi. Mối tình chi, mượn
màu son phấn.
Đền nợ Ô, Li . . . vàng lộn theo chì”.
Cảnh nàng Vương Tường tự vận:
“Quanh
rường một bức khăn lá rủ,
Treo nguyệt ba canh, bóng quế cao.
Gương đã lạnh lùng mờ cẩm trướng,
Châu còn thắm thoát quen la bào.”
Trong dân
gian đã có câu ca dao châm biếm cuộc hôn nhân này:
“Tiếc thay cây quế giữa rừng,
Để cho
thằng Mán thằng Mường nó leo.”
c.-Truyện Trinh Thử
Trinh thử có nghĩa là con chuột biết giữ trọn tiết trinh, (thử = con chuột).
Truyện viết theo thể lục bát, tác giả là Hồ Quyền Qui.
Đây là truyện ngụ ngôn, có hai nhân vật chính là chuột Bạch và chuột Đực.
Chuột Bạch, goá chồng, tượng trưng cho lòng dạ kiên trinh, chánh đạo. Còn chuột
Đực tượng trưng cho hạng tà dâm gian trá.
Tác
giả ám chỉ Hồ Quý Ly, lúc ấy làm Thủ Tướng, theo cái nhìn của tác giả thì Hồ
Quý Ly là một kẻ đa nghi, nịnh tặc,tàn bạo, tham lam qua lời chuột Bạch:
“Làm người mang tính hồ
nghi,
Thấy
người cốt ngạnh chẳng vì chẳng yêu.
Vẫy
vùng ếch giếng tự kiêu,
Tham
lam chẳng khác Lý Miêu đời Đường.
Bệ
rồng gác phượng tấc gang,
Quen
lòng khuyển mã toan đường dong thân.
Nở
làm đố quốc hại dân,
Những
phần ích kỷ nào phần ích ai.”
rồi đề cao hình ảnh đình chủ tức là Hồ Sinh, tác
giả, trong những nét cao đẹp, thanh thoát:
“Sao bằng
đình chủ thiếp nay,
Ba
gian oa xá tháng ngày tiêu dao.
Chẳng
lo đuổi thỏ săn hươu,
Rồng
còn uốn khúc ở ao đợi thì.”
Truyện Trinh Thử được viết vào cuối
thời Trần, khi Hồ Quý Ly chưa cướp ngôi vua.
Nhận xét: Tác giả, Hồ Quyền
Qui, đã lấy quan niệm trung quân ái quốc
của Tống Nho để chỉ trích Thủ Tướng Hồ Quý Ly. Thật ra, Hồ Quý Ly là bậc có tài
về chánh trị, kinh tế, quân sự. Như đã trình bày, Hồ Quý Ly đã ra lịnh phát hành
tiền giấy lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế tài chánh của nước ta.
d.-Nghĩa sĩ truyện:
Tác giả là Hoàng
Trừng, cháu ngoại của Nguyễn Biểu, chép lại sự kiện lịch sử của sứ bộ Nguyễn Biểu.
Năm
1413, vào thời Hậu Trần, vua Trần Quí Khoáng thua nhiều trận, nên kéo quân chạy
vào Hoá Châu. Trong lúc tình hình nguy cấp, vua sai Nguyễn Biểu đem phẩm vật đến
cầu phong tướng nhà Minh là Trương Phụ đang đóng quân ở Nghệ An. Nguyễn Biểu đã
mắng tướng Minh là đồ cướp bóc, ngang ngược. Trương Phụ tức giận ra lệnh đem chém
ông.
III.-Kết luận về văn học thời Trần - Hậu Trần:
Chúng ta có thể ngạc nhiên rằng Trần Thủ Độ xuất thân là một anh thuyền chài không có học
vấn đã khai sáng nên sự nghiệp đế vương cho nhà Trần, nhưng lại có những chánh
sách phát triển giáo dục để đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước Đại Việt.
Về mặt sáng tác cũng như nhân tài, thời
Trần - Hậu Trần đã vượt xa thời Lý, văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước
tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý. Trong thời Trần - Hậu Trần có sự tiến
triển không ngừng của văn chương Quốc âm, khởi đầu cho nền văn chương Quốc âm
trong lịch sử văn học Việt Nam.
Qua các tác phẩm thời Trần - Hậu Trần
chúng ta thấy có các đặc điểm sau đây:
1.-Về ngôn từ: chữ Nôm / chữ Quốc âm không những là lợi khí cho việc sáng
tác mà còn là phương tiện truyền bá học thuật. Hồ Quý Ly đã xác nhận tính phong
phú của chữ Quốc âm, và ông đã quyết định xây dựng một nền quốc học. Điều này
thể hiện tinh thần tự cường của dân tộc muốn thoát ly ảnh hưởng văn hoá Trung
Hoa. Tinh thần thoát Trung đã ăn sâu
vào tiềm thức của dân tộc Việt Nam từ đó.
2.-Về thể cách: các thi nhân đời Trần - Hậu Trần sử dụng lối thơ lục bát
của dân tộc để viết các loại truyện, họ còn sử dụng thể Đường luật của Trung
Hoa để ngâm vịnh.
3.-Về nguồn cảm hứng: thi nhân đời Trần - Hậu Trần đã dung hoà hai nguồn cảm hứng: -
một nguồn cảm hứng từ thực tế của dân tộc có tính cách như lời nói của người bình
dân; - một nguồn cảm hứng từ thư tịch của
Trung Hoa, các tác giả Việt Nam thâu thập những yếu tố thanh lịch và hàm súc của
văn chương Trung Hoa.
4.-Về Khuynh hướng: nội dung thi văn thời Trần - Hậu Trần có khuynh hướng
trực tiếp hoặc gián tiếp phản ánh những biến cố lịch sử, hoặc xã hội, hoặc chuyển
tải đạo lý.
Nội dung nỗi bật nhất là những
bài thơ yêu nước, đó là tiếng nói bất khuất của dân tộc Đại Việt. Các tác giả đã
nói lên cái hào khí Đông A của một thời
đại đã 3 lần chiến thắng giặc xâm lược Nguyên Mông.
Như đã trình bày, vào thời
Trần, Phật giáo đã nhường bước cho Nho giáo. Nhưng Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng
sâu đậm trong hàng vua chúa, nhiều nhà vua đã xuất gia đi tu. Vua Trần Nhân Tông
đã khai sáng thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Văn học thời Lý có 74 tác giả,
văn học thời Trần có 89 tác giả. Thời Lý có 40 tác giả là các thiền sư, nhưng
thời Trần chỉ có vài thiền sư như Pháp Loa, Huyền Quang. Như vậy, trong văn học
thời Lý các tác giả hầu hết là các nhà sư, còn trong văn học thời Trần thì ít hơn.
Tư tưởng
Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng Thiền học. Trong quyển tư tưởng Phật
giáo trong văn học thời Trần, chúng
tôi sẽ tìm hiểu tư tưởng thiền học của vua Trần Thái Tông, tư tưởng thiền học của
Tuệ Trung Thượng Sĩ, Tư tưởng thiền học của vua Trần Nhân Tông với thiền phái
Trúc Lâm – Yên Tử.
Toronto, ngày 7 tháng 8 năm 2020.
Nguyễn Vĩnh Thượng