marque

*** Chào mừng bạn đang ghé thăm trang web An Phong An Bình***

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

Về một nhà giáo thời VNCH: TS Nguyễn Thanh Liêm



GS TS Nguyễn Thanh Liêm

Nhà Văn Hoá Giáo Dục Nhân Bản Việt Nam

bài viết của Nguyễn Vĩnh Thượng

Lời nói đầu :
Vào lúc 2 giờ chiều Chủ Nhật 21 tháng 11, năm 2010, tại trụ sở Đài truyền hình VHN, ở California, Hoa Kỳ, Văn Đàn Đồng Tâm, Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ và Đài truyền Hình VHN đã tổ chức lể vinh danh G.S Nguyễn thanh Liêm, vừa tròn 78 tuổi, đồng thời cũng là lể ra mắt quyển sách: "Kỷ Niệm về Giáo Sư Nguyễn Thanh Liêm, Nhà Văn Hoá Giáo Dục Nhân Bản Việt Nam"  do Văn Đàn Đồng Tâm xuất bản. Cuốn sách này , dày  422 trang , là một tuyển tập có trên 40 bài viết của 38 tác giả như: T.S Nguyễn xuân Vinh, Doãn quốc Sỹ, Lâm văn Bé, Trần thành Minh, Trần việt Hải, Nguyễn viết Sơn, Nguyễn trung Quân, Nguyễn văn Sâm, T.S Phạm cao Dương, T.S Trần văn Đạt, T.S Nguyễn hữu Phước, T.S Nguyễn văn Bon, Lê văn Khoa và tôi v…v…

Trong buổi lể ra mắt sách nêu trên, T.S Thy Dung đã giới thiệu: ..."  Giá trị của quyển sách này không bởi các bài viết do những người nổi tiếng trong lãnh vực văn học , nghệ thuật , nhưng điều đáng trân quý ở đây là nội dung các bài viết đều thấm đượm tinh thần kính trọng, ngưởng mộ, yêu mến và biết ơn G.S T.S Nguyễn thanh Liêm ..."

Báo điện tử "Viển Đông Daily News" đã tường thuật buổi lể nói trên và nhận định về quyển sách nêu trên có đoạn viết :
      

" ... Tác giả Nguyễn vĩnh Thượng có bài viết khá dài, trong đó tác giả xác định G.S T.S Nguyễn thanh Liêm là "Nhà văn hoá giáo dục nhân bản Việt Nam" qua các tiểu mục : Người có chí tiến thủ - Nhập thế hành động- Nhà hành chánh thanh liêm, khoan dung và giàu tình thương - Một người con có hiếu, một chánh khách trung thành với chế độ Việt Nam Cộng Hoà - Triết lý giáo dục của VNCH - Một vì sao sáng trên vòm trời văn hoá dân tôc."

xem tiếp, mời bấm vào đây Về một nhà giáo dục thời VNCH

Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2018

GS Nguyễn Vĩnh Thượng, nhà giáo, nhà biên khảo






 Nguyễn Vĩnh Thượng là một Giáo sư trung học đã làm việc trong nhiều lãnh vực: giáo dục, biên khảo và công chức ngành  xã hội. Ông còn có bút hiệu là Nguyên Thương dành cho các bài văn thơ diễn tả tình cảm nhẹ nhàng. Ông sanh năm 1944 tại quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc, Việt Nam.




Giai đoạn ở Việt Nam

Học vấn

  • 1956 - 1963: Học sinh trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn.
  • 1964 - 1965: Sinh viên Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn.
  • 1967: Cử nhân Phật học, Phân khoa Phật học và Triết học Đông phương, Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
                      Cử nhân Văn Khoa, Phân khoa Văn học và Khoa học nhân văn, Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
  • 1969: Cử nhân giáo khoa Triết học Đông phương, Trường Đại học Văn khoa, Viện Đại học Sài Gòn.
  • 1970: Cử nhân giáo khoa Triết học Tây phương, Trường Đại học Văn khoa, Viện Đại học Sài Gòn.
  • 1974: Chứng chỉ năm thứ ba Cử Nhân Luật Khoa-Ban Tư Pháp, Luật Khoa Đại Học Đường, Viện Đại Học Sài Gòn.

 Việc làm

  • 1969 - 30 tháng 4 năm 1975: Giáo sư triết học tại các trường Trung học Cần Đước, Petrus Ký, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn An Ninh và trường Sư phạm Sài Gòn.
  • 1971 - 1972: Chuyên viên giáo dục tại Nha Kế hoạch và Pháp chế học vụ, Bộ Văn hoá Giáo dục và Thanh niên VNCH, Sài Gòn.
  • 1972 - 30 tháng 4 năm 1975: Thanh Tra tại Sở Tiểu học Sài Gòn phụ trách học vụ của 20 trường Trung Tiểu học ở Đô thành Sài Gòn; và tại Văn Phòng Phụ tá Đặc biệt Tổng Trưởng đặc trách ngành Trung Tiểu học, Bộ Văn hoá Giáo dục và Thanh niên VNCH, Sài Gòn.
  • Sau 30 tháng 4, 1975 - đến tháng 6, 1979: dạy toán học tại các trường Trung học Phổ thông cấp 3 Tây Sơn và Marie Curie.

Giai đoạn ở Canada 
 Học vấn

1987 - 1992:  Diplomas in : 

  • Community work tại George Brown-The City College, Toronto, Ontario, Canada;
  • Accounting and Canadian Personal & Corporate Taxation tại Seneca college of Applied Arts and Technology, Toronto, Canada
  • Social work tại Humber College – Institute of Technology and Advanced Learning, Toronto, Ontario, Canada.

Việc làm



  • 1990 - 1992: Office manager/ Quản lý văn phòng tại Vita Income Tax Accounting and Paralegal Services, Toronto, Ontario, Canada.
  • 1992 đến cuối năm 2014: Social Services Worker/ Social Assistance Caseworker (Công chức phụ trách trợ cấp an sinh xã hội) tại Social Services Department, Mississauga office,  trực thuộc Regional Municipality of Peel, vùng Greater Toronto Area (GTA), tỉnh Ontario, Canada.
  •  Từ cuối năm 2014 đến nay: về hưu, đọc sách, viết lách và hưởng nhàn; cộng tác với các Website Thư Viện Hoa Sen, Trang Nhà Quảng Đức, Chùa A-di-đà Australia, An Phong - An Bình ...                    









GS Nguyễn Vĩnh Thượng được vinh danh là nhà giáo dục đã có công với nền Giáo dục Quốc gia Việt Nam trước 1975, trong Ngày Tôn Sư Trọng Đạo năm 2016 do Hội Lê Văn Duyệt Foundation tổ chức long trọng vào trưa Chúa Nhật ngày 05 tháng 6 năm 2016 tại Nam California - USA. 







Tác phẩm

Sách
  • Bộ sách giáo khoa triết học lớp 12, do Hiện Đại phát hành tại Sài Gòn, năm 1972: 
    • Đạo Đức học 12 ABCD, 
    • Luận lý học 12 ABCD, 
    • Tâm Lý học 12 ACD, 
    • Siêu hình học 12 CD.
  • Bộ sách câu hỏi giáo khoa triết lớp 12, do Hiện Đại phát hành tại Sài Gòn, năm 1973: 
    • Câu hỏi giáo khoa Đạo đức học và Luận lý học 12 ABCD, 
    • Câu hỏi giáo khoa Tâm lý học và Siêu hình học  12 ACD.
  • Bộ sách trắc nghiệm triết học lớp 12, viết chung với Bùi Văn Bình, Nguyễn Hữu Hiệp, Lê Trường Xuân, Phan Quang An , do Yiễm Yiễm xuất bản tại Sài Gòn: 
    • Trắc nghiệm Đạo Đức học và Luận Lý học 12 B, tháng 2 năm 1975,
    • Trắc nghiệm Đạo Đức học, Luận lý học và Tâm lý học 12 A, tháng 3 năm 1975.
  • Tư Tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý, Hiện Đại xuất bản tại Toronto, Ontario, Canada, 1996; Phật Học Viện Quốc tế và NXB Văn Nghệ  phát hành ở California, Hoa Kỳ.
  • Tuyển Tập Biên Khảo Nguyễn Vĩnh Thượng – ebook, Website An Phong An Bình, Toronto, Canada, 2016. USA: Amazon phát hành.
  • Bát-nhã Tâm Kinh - Chú giảng, USA: Amazon phát hành, 2018.
  • Triết học Phật giáo và những luận đề, USA: LuLu Press phát hành, 2020.
  • Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý, tái bản có sửa chữa và bổ túc lần thứ nhất, USA: LuLu Press phát hành, 2020.
  • Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Trần, USA: LuLu Press phát hành, 2021.

Bài viết

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2016

Cảm tưởng về GS TS Nguyễn Thanh Liêm và tri ơn Thầy Cô của một cựu học sinh Petrus Ký trong lễ Tôn Sư Trọng Đạo ngày 05 tháng 6, 2016 tại Garden Grove, Santa Ana, Nam California.


Lời tác giả: Chúng tôi đến phi trường Los Angeles từ Toronto vào chiều ngày thứ Năm 02 tháng 6, 2016 để  dự  lễ Tôn Sư Trọng Đạo ngày 05 tháng 6, 2016 do Hội Lê Văn Duyệt Foundation tổ chức. Trước đó, tôi có nhận được email của bạn Trần Vĩnh Trung (Petrus Ký 1956-1963) nói rằng “Thầy Liêm muốn mày nói về Thầy trong ngày lễ TSTĐ”. Cách đây trên một tháng tôi đã gởi bài “Cảm tưởng của một học sinh Petrus Ký” (1) đến Hội Lê Văn Duyệt Foundation , bài này được đăng ở trang 28 trong tập san Tôn Sư Trọng Đạo 2016.Chiều  thứ Sáu 03 tháng 6,2016, vợ chồng tôi  đến thăm Thầy Nguyễn Thanh Liêm. Thầy có mời hai vợ chồng tôi đi ăn cơm chiều, nhưng thấy sức khoẻ Thầy không tốt, không tiện đi ra ngoài, chúng tôi xin hẹn với Thầy để khi khác. Chúng tôi đã ở lại tâm sự với Thầy khá lâu. Trước khi chúng tôi ra về, Thầy dạy rằng: “Nói về Thầy trong ngày lễ Tôn Sư Trọng Đạo, nhưng nhớ nói ngắn thôi vì có nhiều người nói nữa” , tôi kính cẩn trình với Thầy : “Dạ, em sẽ nói những gì em đã suy nghĩ về Thầy”. Chiều thứ Bảy 04 tháng 6, 2016, bạn Trung chở chúng tôi đi viếng vài ngôi chùa lớn ở Santa Ana, rồi chở chúng tôi về khách sạn. Sau đó tôi liền lấy giấy ra sơ thảo bài phát biểu vào ngày mai Chúa Nhật 05 tháng 6, 2016.
Sau đây là bài phát biểu của tôi trong ngày lễ trọng đại này.
Nguyễn vĩnh Thượng


-Kính thưa Quý vị Quan khách.
-Kính thưa Quý Vị Đại diện các Hội đoàn và các Cơ quan truyền thông.
-Kính thưa Quý Thầy Cô và Thầy Nguyễn Thanh Liêm.
-Cùng các Anh Chị Em cựu học sinh Petrus Ký và các trường bạn.
Thật là một vinh hạnh cho tôi được đại diện các anh em cựu học sinh Petrus Ký khóa 1956-1963 để nói vài lời trong buổi lễ hôm nay.
Trước hết, tôi hết sức cảm động  khi đứng trước cuộc sum họp đông đủ của quý vị trong buổi lễ Tôn Sư Trọng Đạo này, xin cám ơn quý vị.
Tiếp theo đây, tôi xin đại diện các bạn tôi trân trọng cám ơn sự dạy dỗ của các Thầy Cô, của Thầy Nguyễn Thanh Liêm. Ngày nay, anh em chúng tôi nhiều người đã có danh phận là nhờ sự hun đúc của nền giáo dục đặt trên nền tảng của triết lý siêu việt:  giáo dục nhân bản, giáo dục dân tộc và giáo dục khai phóng.
Tôi đã may mắn được Thầy Nguyễn Thanh Liêm giảng dạy môn Việt văn ở lớp Đệ Tam (lớp 10) niên khóa 1960 – 1961 tại trường Trung học Petrus Ký, Sài gòn. Đối với tôi, Thầy Nguyễn Thanh Liêm không những là vị Thầy dạy Việt văn ở lớp Đệ Tam mà còn là một bậc Thầy về xử thế ở ngoài đời nữa.
Thầy Nguyễn Thanh Liêm là một chánh khách trung thành với chế độ VNCH. Trên 40 năm sống lưu vong nơi đất khách quê người, Thầy luôn luôn hoạt động hướng về triết lý chính trị của chế độ VNCH, Thầy luôn luôn thể hiện tư cách đạo đức lý tưởng của nhà lãnh đạo VNCH. Trong quá khứ, Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã là một nhà lãnh đạo hành chánh thanh liêm, khoan dung và giàu tình thương (great compassion). Tôi rất  quý mến các đức tính cao quý của Thầy Liêm, nhất là tấm lòng dồi dào tình thương đối với mọi người.
Thầy Nguyễn Thanh Liêm là một nhà giáo dục nhân bản: Thầy đã được un đúc trong một nền giáo dục nhân bản truyền thống của dân tộc Việt Nam.Khi Thầy là giáo sư, sau đó là một nhà lãnh đạo hành chánh cao cấp trong ngành giáo dục, Thầy đã thực hiện cái triết lý giáo dục cao quý nầy để dạy học sinh và để điều khiển nền giáo dục Trung Tiểu học của VNCH. Triết lý giáo dục của chế độ VNCH là một triết lý giáo dục siêu việt :
- giáo dục nhân bản (humanistic education).
- giáo dục dân tộc (nationalistic education).
giáo dục khai phóng (open-minded education).
Thầy Nguyễn Thanh Liêm là một vì sao sáng trên vòm trời văn hóa dân tộc. Khí hậu ở Tiểu bang Iowa rất lạnh lẽo vào mùa Ðông, nên Thầy đã lựa chọn dời về tiểu bang California. California là nơi có nắng ấm, người Việt Nam quây quần ở tiểu bang này rất đông, tình đồng hương rất nồng nàn. Ngoài công việc làm hằng ngày, Thầy Liêm là người rất thích hoạt động cho các hội đoàn như các Hội Ái hữu Cựu Học sinh Petrus Ký, Gia Long, Nguyễn Ðình Chiểu ...và nhiều hội đoàn khác trong các sinh hoạt văn hóa, xã hội và chính trị.Thầy đã thành lập Hội  “ Lê Văn Duyệt Foundation”. Thầy đã chủ trương Tập San Nghiên Cứu Văn Hóa Ðồng Nai Cửu Long. Tập san này chuyên nghiên cứu về địa chí, văn học, văn nghệ, lịch sử v.v...của miền Nam Việt Nam; tựu trung để cho độc giả biết rằng miền Nam Việt Nam đã có một nền văn hóa đặc thù của phương Nam.
 Tuy công việc đa đoan, Thầy thường vui lòng viết lời giới thiệu cho các tác phẩm khảo cứu giá trị, các tập truyện ngắn, tiểu thuyết  đến cộng đồng Việt Nam
hải ngoại. Thầy đã làm việc không biết mệt mỏi và không ngừng nghỉ, viết nhiều bài khảo cứu, nghị luận, và dấn thân đóng góp vào các sinh hoạt xã hội, chính trị v.v...nhằm mục đích bảo tồn và phát huy nền văn hóa dân tộc trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Ngày Chúa nhật 17 tháng 4 năm 2016 tại thành phố San Jose, California, Hoa Kỳ, Hội Ái hữu cựu học sinh Petrus Ký đã tổ chức buổi ra mắt quyển “Tuyển tập  Nguyễn Thanh Liêm”. Buổi ra mắt sách này rất thành công. Đây là một quyển sách đã tuyển chọn các bài biên khảo của Thầy về giáo dục, văn hóa, chính trị, tôn giáo, danh nhân … của Việt Nam. Tuyển tập Biên khảo của Thầy Nguyễn Thanh Liêm là một gia tài văn hóa rất quý báu mà Thầy đã truyền bá cho cộng đồng người Việt Nam.
Hôm nay, tôi ước mong quyển “Hồi ức của cuộc đời Thầy Nguyễn Thanh Liêm” sớm được ấn hành để chúng ta có thể học hỏi được những kinh nghiệm sống của Thầy trải qua những sự biến chuyển của dòng lịch sử Việt Nam và thế giới.
Thầy Nguyễn Thanh Liêm quả là một vị Thầy gương mẫu cho muôn đời (Vạn thế sư biểu).
Tôi kính chúc Thầy Nguyễn Thanh Liêm được dồi dào sức khỏe để tiếp tục công việc bảo tồn và phát huy văn hóa nhân bản, dân  tộc và khai phóng ở hải ngoại, và chuyển ngọn lửa thiêng về Việt Nam để phục hồi lại văn hóa truyền thống của dân tộc ta.
Tôi trân trọng cám ơn và kính chào tất cả quý vị.
Santa Ana, ngày 05 tháng 06 năm 2016.                                           
Nguyễn Vĩnh Thượng
Cựu học sinh trường Trung học Petrus Ký (1956 – 1963)

Nguồn: Video YouTube toàn bộ buổi lể TSTĐ ngày 05 tháng 6, 2014, dài 2 tiếng 24 phút. Xem NVT phát biểu tại thời điểm 1 tiếng 57 phút đến 2 tiếng 03 phút, dài 6 phút:



o-O-o
(1)  Bài viết “Cảm tưởng của một học sinh Petrus Ký”  đã  được đăng ở trang 28 trong tập san Tôn Sư Trọng Đạo 2016 của Hội Lê Văn Duyệt Foundation , nguyên văn như sau:

Cảm Tưởng của một cựu học sinh  Petrus Ký.
-Kính thưa Phu nhân của Cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu.
-Kính thưa Quý vị Quan khách.
-Kính thưa Quý Vị Đại diện các Hội đoàn và các Cơ quan truyền thông.
-Kính thưa Quý Thầy Cô và Thầy Nguyễn Thanh Liêm.
-Cùng các Anh Chị Em cựu học sinh Petrus Ký và các trường bạn.
Thật là một vinh hạnh cho tôi được đại diện các anh em cựu học sinh Petrus Ký khóa 1956-1963 để nói vài lời trong buổi lễ hôm nay.
Trước hết, tôi hết sức cảm động khi đứng trước cuộc sum họp đông đủ như hôm nay mặc dầu quý Quan khách, quý Thầy Cô và Anh Chị Em vô cùng bận rộn, nhiều vị đã đến từ nơi rất xa.
Tiếp theo đây, tôi xin đại diện các bạn tôi trân trọng cám ơn sự dạy dỗ của Thầy Cô, của Thầy Nguyễn Thanh Liêm. Ngày nay, anh em chúng tôi nhiều người đã có danh phận là nhờ sự hun đúc của nền giáo dục có nền tảng là một triết lý siêu việt:  giáo dục nhân bản, giáo dục dân tộc và giáo dục khai phóng.
Các Thầy Cô và Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã truyền đạt nền giáo dục siêu việt này cho chúng tôi. Đặc biệt trước năm 1975, Thầy Nguyễn Thanh Liêm với cương vị lãnh đạo ngành giáo dục Trung Tiểu học đã duy trì và phát huy triết lý giáo dục này. Rồi khi vận nước bị cuốn theo cơn gió lốc trong cuộc cờ chính trị của các cường quốc, Thầy Nguyễn Thanh Liêm và rất nhiều vị khác đã phải rời bỏ quê hương để sống lưu vong nơi đất khách quê người. Nơi đây, Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã tiếp tục bảo tồn và phát huy nền văn hoá giáo dục nhân bản của dân tộc Việt Nam, Thầy đã hoạt động không biết mỏi mệt và không ngừng nghỉ  tuy rằng tuổi đời đã cao.
Một lần nữa, tôi xin đại diện các Anh Chị Em cựu học sinh Trường Trung Học Petrus Ký ghi nơi đây lòng biết ơn sâu sắc từ những học trò của các Thầy Cô và nhất là Thầy Nguyễn Thanh Liêm; trân trọng cám ơn quý quan khách.
Trân trọng kính chào toàn thể Quý vị.        
 Santa Ana, 05 tháng 06 năm 2016.                
 Nguyễn Vĩnh Thượng
 
Cựu học sinh trường Trung học Petrus Ký (1956-1963)




Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2017

Tư Tưởng Nguyễn Thanh Liêm





Nguyễn Vĩnh Thượng

 Gs Ts Nguyễn Thanh Liêm sanh ngày 12 tháng 03 năm 1933 tại làng Phú Túc tỉnh Bến Tre, trong khai sanh ghi là ngày20 tháng 11 năm 1934 tại Mỹ Tho. Thầy qua đời ngày 17 tháng 8 năm 2016 tại Orange County, California, USA, hưởng thọ được 84 tuổi ta.

Gs Ts Nguyễn Thanh Liêm đã để lại một sự nghiệp văn hoá và giáo dục đồ sộ và có nhiều giá trị. Bài viết đầu tiên của Thầy là bài "Diễn văn thường lệ" (dài 13 trang đánh máy) đọc trong ngày "Lễ Phát Thưởng Long Trọng" tại trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký đặt dưới quyền chủ toạ của Ông Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục vào ngày 27 tháng 3 năm 1960. Theo Thầy Nguyễn Thanh Liêm kể lại thì hồi đó, trường Petrus Ký có truyền thống: những Giáo sư Triết và Văn chương mới về trường thì được phân công đọc "Diễn văn thường lệ" trong lễ phát thưởng của trường Petrus Ký. Năm 1959, Thầy Phạm Mạnh Cương đọc Diễn văn này, năm 1960 tới phiên Thầy Nguyễn Thanh Liêm; sau khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Sài- Gon, Thầy Liêm về dạy năm đầu tiên là niên khoá 1958 - 1959.
Kế tiếp là quyển sách giáo khoa "Việt Văn lớp 11 ABCD", in ronéo năm 1962, in sách năm 1963 tại Saigon.
Và tiếp theo là nhiều bài biên khảo, thơ văn, các sách tiếng Việt và Tiếng Anh, Tập san Đồng Nai Cữu Long, Giáo dục Miền Nam trước 1975, Trường Trung học Petrus Ký và nền giáo dục Phổ thông Việt Nam v...v... (độc giả có thể đọc chi tiết trên Internet).
Đặc biệt trong vòng một năm trước khi Thầy qua đời, Thầy đã xuất bản 2 quyển sách:

        1. Tuyển tập Nguyễn Thanh Liêm gồm nhiều bài biên khảo và thơ văn rất có giá trị, xuất bản khoảng tháng 11 năm 2015.
         2. Hồi Ức Nguyễn Thanh Liêm: sự thật đời tôi. Đây là quyển sách ghi lại những trải nghiệm của Thầy từ lúc bé thơ đến trước ngày Thầy qua đời khoảng 2 tháng.

     Bài viết này là một khởi thảo để tìm hiểu "Tư Tưởng Nguyễn Thanh Liêm", được trình bày một cách giản lược, chắc chắn không khỏi có thiếu sót. Chúng tôi hy vọng các bậc Giáo sư, Học giả... sẽ viết nhiều bài thâm cứu về "Tư tưởng và con người Nguyễn Thanh Liêm", chúng tôi cũng ước mong các sinh viên Đại học sẽ lấy nhiều đề tài về Nguyễn Thanh Liêm để viết các Tiểu luận Cao học/Thạc sĩ và các Luận án Tiến sĩ. Tôi hết lòng hoan nghênh và đa tạ các công trình nghiên cứu của quý vị.

         Trong bài viết này, tôi sẽ trình bày:
               I.-Triết lý nhân sinh của Nguyễn Thanh Liêm.
                 II.-Triết lý đạo đức của Nguyễn Thanh Liêm.
                 III.-Triết lý chính trị của Nguyễn Thanh Liêm.
                 IV.-Triết lý giáo dục của Nguyễn Thanh Liêm.
                 V.- Kết luận.

I.-Triết lý nhân sinh của Nguyễn Thanh Liêm:

       Trước cuộc đời, Thầy Nguyễn Thanh Liêm quan niệm rằng "ai cũng phải chết", con người là một "hữu vị tử". Từ đó Thầy nhìn cuộc đời bằng một tinh thần lạc quan: chấp nhận những gì đang có trong cõi đời này để rồi vươn lên, và sống một đời sống xứng đáng là một con người.  Thầy viết:
        " [...] Thật ra thì rồi ai cũng phải chết,
nhưng trước khi chết con người đã phải sống một cuộc sống có thể rất dài. Tuy là so với thời gian vô tận thì một trăm năm không có là bao, không có nghĩa gì cả, nhưng đối với một đời người ba vạn sáu ngàn ngày không phải là ít ỏi gì. Người ta phải sống thế nào đây cho xong cả ba vạn sáu ngàn ngày đó. Ngay khi chờ đợi mỗi giờ, mỗi phút ta đã thấy ngán ngẫm, đau đớn xót xa hay nóng nảy sốt ruột rồi, huống chi là cả một ngày hay trong nhiều ngày như vậy. Cho nên trái ngược với khuynh hướng bi quan nói trên người ta còn có quan niệm khác hơn về cuộc sống. Thay vì nghĩ đến cái chết, có thể rất xa xôi, ta hãy nghĩ đến cuộc sống trước đã. Có người muốn được sống mãi mãi, hay kéo dài như các đấng thần tiên. Người ta tìm thuốc trường sinh, tìm nơi bồng lai tiên cảnh. Có người nghĩ đến cảnh nhàn hạ, cảnh sung sướng ở đời để khi chết đi người ta không phải hối tiếc. Có nghĩa gì đâu khi cuộc sống ngắn ngủi mà lại phù du, thôi thì hãy lấy chung rượu mà khuây khoả nỗi lòng.

"[...] Nhưng đối với tôi những cuộc sống thần tiên hay nhàn hạ chỉ là một cách phản ứng lại cuộc đời vô nghĩa đã nói ở trên. Tôi nghĩ đến một cách sống khác: cuộc sống khắc kỷ (stoicim*1). Hãy chấp nhận cuộc đời này, chấp nhận mọi việc xảy ra ở đời, chấp nhận may rủi, những buồn vui của cuộc đời, và một ngày nào đó chấp nhận ngay cả cái chết. Chấp nhận sự thật ở đời để vươn lên, sống đời sống xứng đáng là con người, là một con vật "linh ư vạn vật*2". Bản ngã của tôi, nhân cách tính tình của tôi, hay căn cước của tôi là như thế."
             (Hồi Ức Nguyễn Thanh Liêm, tr. 16)

Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã sống một cuộc đời theo quan niệm triết học của trường phái khắc kỷ.
(*1Chủ nghĩa khắc kỷ (stoicim) là một trường phái triết học Hellenis (Hellenistic philosophy) được thành lập ở Hy Lạp vào thế kỷ thứ 3 tr. CN, được phát triển mạnh mẽ ở La Mã và Hy Lạp cho đến thế kỷ thứ 3 sau CN. Chủ nghĩa khắc kỷ quan niệm triết lý đạo đức của cá nhân được hình thành bởi một hệ thống luận lý và cái nhìn về thế giới thiên nhiên. Do đó, con người như là một sinh vật xã hội có con đường đi đến hạnh phúc là chấp nhận những gì xảy ra trong cuộc đời, và chế ngự những tham luyến dục lạc cũng như chế ngự những  khổ đau, những đau đớn và vượt qua những âu lo của cuộc đời bằng cách dùng trí tuệ của mình để thấu hiểu thế giới ở chung quanh chúng ta. Chúng ta hãy thực hiện những hành vi của mình bằng cách cùng hợp tác với người khác và đối xử với họ một cách công bằng.)

Con người là một sinh vật xã hội, và con người là một cây sậy biết suy tư, nên Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã đề cao con người theo triết lý nhân bản:  *2nhân linh ư vạn vật, có nghĩa là con người linh thiêng hơn hết mọi loài vật, con người là nền tảng cho mọi sự trong vũ trụ. Thầy Nguyễn Thanh Liêm xác nhận: Bản ngã của tôi, nhân cách tính tình của tôi, hay căn cước của tôi là như thế.
Thầy đã làm những gì Thầy nói và nói những gì Thầy làm. Tư tưởng và hành động là một, đây là tinh thần: tri hành hợp nhất.
Vào cuối đời của mình, Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã tự duyệt xét về nhân cách của mình:
       Tính ra tôi thấy không xấu hổ với người đời dù là người Việt Nam hay là người Mỹ. Tôi nghèo nhưng cũng sống được. (Hồi Ức Nguyễn Thanh Liêm)
        Thầy có một tinh thần đạo đức siêu việt, chúng ta không những chỉ tìm hiểu về tinh thần đạo đức của Thầy mà còn nên thực hiện nhân cách cao quý này nữa.
Nhân cách của Thầy đáng tôn kính muôn đời.


II.- Triết lý đạo đức của Nguyễn Thanh Liêm:

              1.Thầy Nguyễn Thanh Liêm là một người con có hiếu: Thầy đã phụng dưỡng cha mẹ già cho đến ngày khuất bóng.

              2.Thầy Nguyễn Thanh Liêm là cấp lãnh đạo VNCH đã có tinh thần thanh liêm, công bằng và khoan dung . Trong bài diễn văn đọc trong lễ phát thưởng ngày 27 tháng 3 năm 1960 tại trường Petrus Trương Vĩnh Ký Thầy đã nhấn mạnh đến những đức tính cao quý của tổ tiên
                                    - Lòng yêu chuộng công bằng.
                                    - Lòng nhân đạo

đây không chỉ là lời giáo huấn đối với học sinh mà Thầy còn thực hiện trong chính đời sống cá nhân của mình nữa.

III.-Triết lý chính trị của Nguyễn Thanh Liêm:

           -Đi kháng chiến chống Pháp:
                  
Khi còn là thanh thiếu niên, theo tiếng gọi của lòng yêu nước, Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã tham gia kháng chiến chống Pháp. Từ 1945 đến 1948, Thầy đã gia nhập Thanh niên Tiền phong rồi Việt Minh để chống Pháp ở vùng Bến Tre. Tương tự, Thầy Tạ Ký (1928-1979) cũng đã tham gia kháng chiến chống Pháp ở khu 5. Các Thầy đã sống trong một giai đoạn lịch sử thật là nghiệt ngã, đó là thế hệ 1945:
Chúng tôi:
Thế hệ bốn lăm,
Vui chưa bao nhiêu, nhiều lúc khóc thầm,
Một phần tư thế kỷ,
Lừa lọc, gian ngoa, một bầy ác quỷ,
Tuổi thanh xuân tàn như một giấc mơ!

    (Tạ Ký, Thế hệ bốn lăm. trong tập thơ Sầu ở lại, Saigon 1972)

Cả hai Thầy đều đã không chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản, nên họ đã dinh tê vào vùng Quốc gia. Dinh tê là tiếng phiên âm của chữ Pháp là renter, đây là một tiếng lóng vào thời đó có nghĩa là từ bỏ vùng chiếm đóng của Cộng sản để trở về vùng Quốc gia đang kiểm soát.
Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã có tinh thần chống lại văn hóa Cộng sản, Thầy viết:
...Cộng sản có thể xoá bỏ một nền văn hóa cổ truyền để thay thế bằng một nền văn hoá Cộng sản. Bằng ép buộc, bằng kìm kẹp, bằng sức mạnh người ta có thể cải đổi, uốn nắn một nền văn hóa theo ý muốn của mình. Bậc thang giá trị (value system) có thể bị xáo trộn, bị đảo lộn, bị quan niệm lại một cách khác hơn. Những trẻ em sinh ra và lớn lên trong xã hội Cộng sản, được xã hội hóa trong xã hội Cộng sản, chỉ biết bậc thang giá trị Cộng sản, mang căn cước Cộng sản, sẽ khó chấp nhận những ý kiến, tư tưởng ngoài thế giới Cộng sản...
(Tuyển tập Nguyễn Thanh Liêm, tr. 3)
Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã chọn và theo con đường của thuyết nhân bản. Thuyết nhân bản là một sợi chỉ xuyên suốt các sinh hoạt chính trị, sinh hoạt văn hoá và sinh hoạt giáo dục của Thầy.

Vào tháng 4 năm 1975, Thầy Nguyễn Thanh Liêm bắt buộc chọn lựa con đường lưu vong trước khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ. Trên 41 năm sống lưu vong ở Mỹ, thầy đã hết lòng bảo tồn và phát huy văn hoá giáo dục nhân bản của VNCH. Thầy đã tích cực sinh hoạt với các Hội đoàn Quốc gia, Thầy đã hoạt động không biết mỏi mệt và không ngừng nghỉ cho đến hơi thở cuối cùng vào ngày 17 tháng 08, năm 2016. Thầy đã có một tinh thần kiên cường trong cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ và độc lập của Việt Nam.
Về quan điểm chính trị, Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã xác định: Căn cước Quốc Gia, nhân bản, tự do cần bảo vệ, giữ gìn cho mai sau (Tuyển tập Nguyễn Thanh Liêm, tr.7) (...) Căn cước gắn liền với văn hóa. Người được xã hội hóa vào nền văn hoá nào thì mang căn cước nền văn hoá đó. Người Việt Quốc Gia, tỵ nạn cộng sản mang căn cước Quốc gia. Người Việt Cộng Sản mang căn cước Cộng Sản. Hãy gọi căn cước A là căn cước của người Việt Quốc Gia, tỵ nạn cộng sản, chống Cộng quyết liệt, với cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng. (Tuyển tập Nguyễn Thanh Liêm, tr. 7)

IV.-Triết lý giáo dục của Nguyễn Thanh Liêm:

Là một nhà giáo dục, Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã dồn nỗ lực trong việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa giáo dục nhân bản.
Trước 1975, ở Việt Nam, với cương vị lãnh đạo ngành giáo dục trung tiểu học, Thầy đã nối tiếp và phát huy nền giáo dục dựa trên một triết lý căn bản:
                     1. Giáo dục nhân bản.
                        2. Giáo dục dân tộc.
                        3. Giáo dục khoa học và khai
phóng.
Nhờ đó nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam đã phát triển vượt bực, ngày nay rất nhiều người còn nuối tiếc cho nền giáo dục nhân bản này.
Với tinh thần công bằng sẳn có, Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã đánh giá sự thành công của ngành giáo dục ở miền Nam Việt Nam là do sự yểm trợ tích cực của mọi giới dân, quân, cán, chánh của VNCH. Thầy viết:
(...) Từ 1955 đến 1975, trong hai mươi năm này nền giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vô cùng nhanh chóng mặc dầu quốc gia phải đương đầu với những khó khăn của cuộc chiến khi nóng khi lạnh chống lại chủ nghĩa Cộng Sản và những bất ổn chính trị xảy ra rất thường ở miền Nam. Phần thì ngân sách eo hẹp (chỉ vào khoảng từ 7% đến7.5% ngân sách quốc gia; quốc phòng trên 40%, nội vụ khoảng 13%) vì phải dành phần lớn cho an ninh quốc phòng, phần thì bị Cộng Sản tích cực phá hoại, phần thì bị những bất ổn chính trị nội bộ, nhưng tất cả những khó khăn đó đều được vượt qua để đạt những kết quả hết sức khả quan so với nền giáo dục của Cộng Sản ở Bắc Việt cùng trong thời gian này. Kết quả tốt đẹp đó sở dĩ có được là nhờ thành tâm thiện chí với những nỗ lực không ngừng của rất nhiều người làm giáo dục cùng sự yểm trợ hết sức tích cực của mọi giới dân, quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa.
(Tuyển tập Nguyễn Thanh Liêm, tr. 21)
Ở hải ngoại, Thầy đã tiếp tục bảo tồn và phát huy văn hóa Việt Nam, Thầy viết lách, xuất bản sách, tập san không ngừng nghỉ.
Thầy Nguyễn Thanh Liêm là nhà văn hóa giáo dục nhân bản. 

V.-Kết luận: 

Qua con người và tư tưởng của Thầy Nguyễn Thanh Liêm, chúng ta có thể đánh giá tinh thần của Thầy gồm có mấy điểm chính sau đây:
1.Thầy có tinh thần lạc quan trước cuộc đời.
2.Thầy có lòng yêu chuộng công bằng, thanh liêm, nhân đạo.
3. Thầy có lòng yêu nước dạt dào, Thầy là một chính khách trung thành với chế độ VNCH. Thầy đã hoạt động tích cực không biết mỏi mệt  cùng với các Hội đoàn Quốc gia để tranh đấu độc lập, tự do, dân chủ cho nước Việt Nam cho đến khi Thầy qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm 2016.
4.Thầy là một nhà văn hóa giáo dục nhân bản, Thầy đã có một nhân cách cao quý: Thầy Nguyễn Thanh Liêm là bậc Thầy của muôn đời.
5. Kiến thức của Thầy, và những đóng góp trong lãnh vực văn hóa, giáo dục của Thầy có chiều cao ngất trời. Thầy đã đem ngòi bút của mình để chuyển lửa, để truyền đạt triết lý nhân bản không những trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà còn cho người Việt Nam ở trong nước nữa. Tôi ước mơ thế hệ của chúng ta và thế hệ mai sau sẽ thực hành lời dạy của Thầy và noi theo nhân cách cao quý của Thầy.
Những người như Thầy thì sống mãi mãi trong tâm thức của chúng ta. (For men such as he who lives in our hearts and our minds forever). 

*-*-*
         Để tỏ lòng tôn kính nhà hiền triết Nguyễn Thanh Liêm và để tưởng nhớ Thầy, tôi trân trọng đề nghị Lê Văn Duyệt Foundation, Hội Ái Hữu Cựu Giáo sư và Học sinh Petrus Ký ở Nam và Bắc Cal, Các Hội đoàn Quốc gia, các vị dân cử, Nghị viên, Dân biểu, Nghị sĩ, Thị trưởng, các cơ quan truyền thông  v...v... hết lòng vận động để thực hiện:
1.-Thành lập Nguyễn Thanh Liêm Foundation.
2. Đặt tượng đồng Nguyễn Thanh Liêm ở Orange County.
3.Đặt tên đường Dr. Nguyễn Thanh Liêm ở Orange County.
4.-Đưa các tác phẩm của Gs Ts Nguyễn Thanh Liêm vào chương trình môn Việt Văn ở các trường Trung Học và Đại học ở Hoa Kỳ.
   Toronto, ngày 07 tháng 02 năm 2017.
 
  Nguyễn Vĩnh Thượng
   Cựu học sinh trường Petrus Ký (1956-1963)



 


Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2014

Những Kỷ niệm dưới mái trường Petrus Ký

 LPK NGUYỄN KIM QUANG (1953- 1960)


Tôi  thường viết về những kỷ niệm thời thơ ấu nơi mình sinh ra và lớn lên, viết về ngôi trường tiểu học mình từng theo học, viết về con đường làng… một cách khá dễ dàng. Nhưng hôm nay muốn viết về những kỷ niệm thời niên thiếu dưới mái trường Trung học Petrus Ký thật không dễ, có lẽ tại vì Trường Petrus Ký là một trường trung học chỉ dành riêng cho con trai, chung quanh trường không có một lủy tre, hay một con đường có lá me bay, trước cổng trường cũng không có một hàng quán như xe kem hay xe đậu đỏ bánh lọt v.v…
Lục trong ký ức thì nhớ trường nằm trên đường Nancy thời đó, sau này gọi là Đại lộ Cộng Hòa và bây giờ có tên là đường Nguyễn Văn Cừ. Đầu đường Nancy có Công trường Khải Định nằm trên giao lộ các con đường Chasseloup Laubat (Hồng Thập Tự), 11è R.I.C Frédéric (Nguyễn Hoàng), Drouhet (Hùng Vương),   Nancy  (Cộng Hòa) và Hui Bon Hoa (Lý Thái Tổ)…. Khu vực này có Công viên Âu Lạc nằm ở ngã sáu đầu đường 11è R.I.C. (Nguyễn Hoàng).  Công viên Âu Lạc cũng không thơ mộng gì lắm vì nó ở ngay bên cạnh đường rầy xe lửa Saigon – Mỹ Tho, buổi trưa các công nhân làm việc gần đó thường hay đến nghỉ lưng…
Bên kia cổng Trường Petrus Ký là những dãy nhà im ắng bên ngoài có hàng rào che chắn, hàng ngày nơi cổng chính có nhiều công chức mặt lạnh như tiền đi ra đi vào. Đó là doanh trại cũ của Quân đội Pháp có tên là Thành Ô-ma (Camp des Mares), năm 1955 trại này là hành dinh của Ủy Hội Quốc tế Kiểm soát Đình Chiến Đông Dương, sau đó là Nha Công An Nam Phần và kế đến là Bộ Tư Lệnh Cảnh sát Quốc Gia Việt Nam.
Trước cổng Trường Petrus Ký có hai trụ cột xi-măng cao khoảng 4 mét ghi khắc hai câu đối chữ Hán do giáo sư Ưng Thiều làm năm 1951 để chỉ đạo đức học tập và trí dục cho học sinh và được ông Hiệu trưởng Phạm Văn Còn chấp thuận:
    Khổng Mạnh Cương Thường Tu Khắc Cốt
    Tây Âu Khoa Học Yếu Minh Tâm.

Trên hai trụ cột là tấm bảng chiều ngang có ghi hàng chữ:
    Trường Trung học Petrus Ký
Dọc theo bên này đường của trường lác đác có vài cây phượng đến mùa hè trổ bông lai rai, không đẹp và nên thơ như những hàng phượng thắm của một số trường khác…
Đi về phía đường Armand Rousseau (đường Thành Thái) là một học khu có nhiều trường Cao đẳng và Đại học như Trường Sư Phạm Quốc Gia, Trường Đại học Sư Phạm, Đại học Khoa học, sau này có thêm Trung Tâm Thính Thị Anh ngữ, Trung Tâm Sinh Ngữ dạy nhiều ngôn ngữ Anh, Pháp, Nhật, Đức, Y-pha-nho… đây là những lớp học buổi chiều do giáo sư Hoàng Gia Lịnh làm Giám đốc, những ai tốt nghiệp hai năm tại Trung tâm này sẽ được bổ nhiệm dạy sinh ngữ tại các trường trung học hay làm việc tại các cơ sở của Bộ Ngoại Giao…  Học sinh hay người lớn muốn vào học Trung Tâm này chỉ ghi danh kể cả Anh Văn, riêng môn Pháp văn phải qua kỳ thi tuyển rất khó; năm 1960 tôi đậu hạng 60/62 trên tổng số hơn 1000 người tham dự vào lớp Pháp văn do Giáo sư Maugé người Pháp dạy, sinh viên trong lớp có nữ Trung úy Hồ Thị Vẽ, sau này chị Vẽ là nữ Trung Tá Chỉ huy phó Đoàn Nữ Quân Nhân QL.VNCH, khi đi học chị Vẽ thường lái xe du lịch và nói tiếng Pháp như một cô đầm chính quốc.

Năm 1953 xong lớp Nhứt Trường Tiểu học Tân Định, tôi đậu vào Trung học Petrus Ký với hạng thứ 264 trên 460 học sinh được tuyển chọn với trên 3000 học sinh các tỉnh thành Miền Nam tham dự. Trường thời đó gọi là Lycée Petrus Ký (viết tắc là L.P.K) cho nên đậu vào Petrus Ký là một vinh dự lớn cho mình và cho gia đình; báo Thần Chung năm 1953 có đăng danh sách học sinh trúng tuyển vào Petrus Ký nơi trang nhứt.
Ngày đầu tiên vào trường, đứng xếp hàng dưới những tàn cây sao cao ngất bên hông những dãy lớp học đồ sộ uy nghi, chúng tôi mặc đồng phục quần short và áo sơ mi trắng chỉnh tề theo hàng ngũ lần lượt đi vào sân trong,dưới sự hướng dẫn của các giám thị và dừng lại ở trước cửa mỗi lớp học một cách có trật tự. Khi vừa qua khỏi cổng vào sân bên trong, nhìn bên phải giữa hành lang chính (préau) thấy thầy hiệu trưởng Phạm Văn Còn, thầy giám học Trương Văn Huấn và thầy tổng giám thị Nguyễn Văn Trương oai vệ đứng đó càng làm cho học sinh chúng tôi thấy cái không khí uy nghi của ngôi trường hơn.

Năm đầu vào học, trường còn dạy chương trình Pháp nên gọi là 7è moderne, các thông báo, các phần thưởng, các hình phạt…  vẫn còn dùng tiếng Pháp; qua năm sau trường đổi qua chương trình Việt nên gọi là Đệ Lục. Tôi học Đệ Lục B cùng với các bạn Đỗ Ngọc Yến (cựu chủ bút báo Người Việt) –  đến giờ sinh ngữ Yến và hai bạn nữa qua học Hán Văn với thầy Ưng Thiều, chúng tôi 37 người còn lại học Anh Văn với thầy Nguyễn Văn Sang, thầy Đinh Xuân Thọ. Cùng lớp Đệ lục B có các bạn hiện giờ đang ở Orange County như anh Nguyễn Minh Quân, Giám đốc ở Phủ Đặc Ủy Tình Báo Trung Ương, anh Nguyễn Văn Ức,cựu Trung tá Không Quân…

Năm 1955 một biến cố chính trị và quân sự xảy ra vì có sự tranh chấp chính quyền giữa Thủ tướng Ngô Đình Diệm và các lực lượng giáo phái. Trường Petrus Ký cũng bị ảnh hưởng vì Lực lượng Bình Xuyên của ông Bảy Viễn đóng quân tại trường. Sau khi thương thuyết giữa Chính phủ và Lực lượng Bình Xuyên bất thành, một đơn vị lính Dù phần đông là người Nùng của Chính phủ tấn công vào trường. Phía Bình Xuyên yếu thế, từ từ rút lui ra phía sau đường Trần Bình Trọng và chạy về Tổng Hành Dinh ở bên kia cầu Chữ Y. Quân Chính phủ làm chủ tình hình,xông vào trường lục soát và nhanh chóng báo cáo về Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã bắt được ông Bảy Viễn. Nhưng người mà quân Dù báo cáo bắt được không phải Bảy Viễn mà là ông Hiệu trưởng Phạm Văn Còn đang mặc một complet tussor màu hột gà, mang kính trắng gọng vàng rất oai nghiêm…

Lớp Đệ Lục B còn có anh Lưu Thanh Giao hiện ở VN, Giao là con thầy Lưu Thanh Niên, giáo sư trường Kiến Thiết, Giao ngồi cuối lớp phía trái, trong giờ học anh thường rù rì với các bạn bên cạnh, có bữa anh đưa cho xem tin tức trong một trang in roneo, thỉnh thoảng anh nhờ anh em ký ủng hộ một thỉnh cầu nào đó… Ở các lớp khác cũng vậy, hầu như lớp nào cũng đều có vài anh làm việc giống như anh Giao. Các bạn này do các anh lớp trên hay các anh sinh viên, nhất là sinh viên trường Luật Saigon theo Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ móc nối cài vào để sẵn sàng rủ rê học sinh yêu sách, xuống đường biểu tình, kêu gọi đình công, bãi thị khi cần….Phần đông các bạn đã tế nhị né tránh những anh này và chăm chỉ học hành…Tuy vậy, cũng có một số người và ngay cả tôi cũng bị ảnh hưởng vì những bạn này rất hiền từ, tích cực tham gia sinh hoạt phong trào hướng đạo, hiệu đoàn, văn nghệ, thể thao, nhất là tình nguyện đi xây dựng giúp đồng bào bị hỏa hoạn ở các khu Bàu Sen, Nancy, cầu Chữ Y… Mỗi lần đi như vậy rất vui đều có các anh lớp trên hay các anh chị sinh viên hướng dẫn, có cả các chị bên Gia Long đi tiếp tế nước uống, chăm sóc y tế, ca hát:
    Hò lơ! hó lơ! hò lờ! rất vui…

Tôi đi theo nhóm của anh Nguyễn Văn Thiện (sinh viên Trường Luật) ngoài việc giúp đồng bào xây dựng nhà cửa, anh Thiện còn phổ biến các bài thơ của Tố Hữu làm trước năm 1945 rất hay như các bài : Ta Đi Tới, Mã Chiến Sơn,…  về âm nhạc thì anh dạy hát và đờn bài Mùa Hoa Nở (Dân Liên Xô ca hát trong vườn hoa…). Được biết anh Thiện là một trong những người lãnh đạo Phong trào Thanh Niên SVHS theo Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, anh là người Bến Tre có bí danh là Trường Giang, lúc còn học ở Collège Le Myre De Villers anh đã quậy rồi… Và khi học Luật anh đã theo Luật sư Nguyễn Hữu Thọ và sau đó, anh xin vào dạy Sử Địa các lớp Đệ nhất ở Petrus Ký. Anh Nguyễn Văn Thiện sau bị bắt cùng với giáo sư Vũ Ký và một số giáo sư khác trong Phong Trào Trí Vận và bị đài đi Côn Đảo. Sau năm 1975 anh Thiện được thả về và làm hiệu trưởng Trường Petrus Ký từ năm 1975 đến năm 1977. Khi được thả từ trại cải tạo miền Bắc về, tôi có đến thăm anh Thiện và hỏi về tình hình đất nước, anh ngập ngừng và nói: Anh đã lầm! Nhưng tôi nghĩ anh không lầm và các người bạn của anh như các ông luật sư Nguyễn Hữu Thọ, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa cũng không lầm, nhưng các anh đã bị các “người anh em ngoài nớ” bán đứng cho Cộng sản Quốc tế…

Chắc nhờ ham học và bị ràng buộc kỷ luật gia đình nên tôi đã “thoát” được “bùa mê” của các thầy chú, nếu không thì đã trở thành đệ tử của Lê Văn Tám hay là sư phụ của Nguyễn Văn Trổi rồi…
Tôi nhớ ngày 6 tháng 11 năm 1955, học sinh Petrus Ký được lệnh tập họp trên đường Thống Nhất cùng học sinh các trường khác trong Đô Thành để đón mừng đoàn quân chiến thắng quân Bình Xuyên từ Rừng Sát trở về. Đến 10 giờ sáng từ đàng xa hướng Thảo Cầm Viên (Sở Thú) đã thấy đoàn quân từ từ tiến tới theo tiếng nhạc quân hành, dẫn đầu là Đại tá Dương Văn Minh, Tư lệnh Chiến dịch Hoàng Diệu, tiếp theo sau là Bộ Tham Mưu và các chiến sĩ oai hùng. Đoàn quân dừng lại trước khán đài dựng giữa Công trường Nhà thờ Đức Bà và Đại lộ Thống Nhứt được các đoàn thể công chức, sinh viên học sinh và dân chúng hoan nghinh nhiệt liệt, choàng vòng hoa,… sau đó nữ ca sĩ Khánh Ngọc lên khán đài ca bản Chiến Sĩ Của Lòng Em, cô hát tiếp nhạc phẩm Em Chỉ Yêu Có Anh Binh Nhì rồi nheo mắt nhìn ông Đại tá một cách tình tứ lãng mạn…

Mười ngày trước đó, chúng tôi cũng tập họp tại địa điểm này để dự cuộc diễn binh mừng Ngày Quốc Khánh đầu tiên do Tổng thống Ngô Đình Diệm chủ tọa và khai sinh nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa.
Theo thời gian, chúng tôi lớn dần lên và qua kỳ thi bằng Trung học Đệ I Cấp thời đó rất khó với tỷ số thi đậu toàn quốc từ 18 đến 20%., nhưng học sinh Petrus Ký đã đậu 90 – 95%.

Lên Đệ Tam mọi người thấy mình như đã trưởng thành vì ngoài giờ học văn hóa, học sinh còn phải tham dự Lớp P.M.S (Preparation Militaire Supérieure) tức là Lớp Huấn Luyện Cao Đẳng Quân Sự. Sau hai năm học lớp này ai thi đỗ được bằng P.M.S thì khi đi lính sẽ tự động được mang cấp bậc Chuẩn úy trừ bị. Những người có bằng P.M.S lúc đó ai cũng hãnh diện ‘ta đây’ là sĩ quan, nhưng sau này đã phải lỡ khóc lỡ cười khi bị động viên vào quân trường Thủ Đức vì họ chưa quen nhiều với khẩu súng Garant, Carbine hay Thompson…  chưa được thực tập chỉ huy cấp Trung đội, Đại đội, thì… đã phải khăn gói quả mướp lên đường ra đơn vị chiến đấu… trên  vai mang cái lon Thượng sĩ gân (Chuẩn úy) còn mới toanh.

Nhớ lại thời học Cao Đẳng Quân Sự sinh viên phải mặc đồng phục kaki trắng, mang giày bố trắng, đầu đội bê-rê đen phía sau có 2 tua màu vàng đỏ, rất oai hùng. Mỗi lần có dịp mặc bộ “nhung phục” này là có nhiều  chàng P.M.S đi qua Gia Long, Trưng Vương để dợt le…  Nhiều trự chiều Thứ Bảy đi ăn kem, bát phố Bonard cũng mặc bộ đồng phục này cho oai… Nhưng, khi bị khách nhàn du nhất là cánh phụ nữ thấy “lính lạ” nhìn họ chăm chăm thì các chàng tò te quíu chân quíu cẳng đi băng xiên băng nai hai hàng giống như mấy mợ có bầu đi chợ rồi các chàng từ từ lặn mất, chứ không oai hùng như sau này ở quân trường Thủ Đức về phép với bộ quân phục thẳng nép, cầu vai có gắn alpha….
Bắt đầu niên khóa 1958- 1959 lớp Huấn Luyện Cao Đẳng Quân Sự không còn nữa. Tôi còn nhớ đầu năm 1958, trong giờ học P.M.S. tại một trại lính cũ của quân đội Pháp để lại trên đường Hùng Vương (sau này là Trường Quân Y) Trung tá Nguyễn Xuân Vinh, Tư lệnh Không Quân QLVNCH, tức nhà văn Toàn Phong đã đến dạy Toán với đề tài: Tình cảm của Thúy Kiều đối với Kim Trọng bằng một biểu đồ Parabol. Hôm đó cũng có ca nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn đến biểu diễn ca và đàn guitar bản Nắng Chiều ra mắt lần đầu tiên của anh tại lớp P.M.S này.

Lớp Đệ Tam B4, chúng tôi thường gọi là Đệ Tam Bê Bối, nổi tiếng quậy nhất trường, sau này ra trường có nhiều anh rất thành côngnhư Trần Khánh Vân (đang ở Santa Ana),  làm Tổng Cục trưởng Tổng Cục Phát Triển Gia Cư, anh Phạm Văn Ngym khóa 18 Võ Bị Đà Lạt (đã chết trong trại tù Miền Bắc), làmTrung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 46/SĐ25BB. Năm 1957 anh Ngym, anh Huỳnh Công Khanh và tôi cùng học Đệ Tam B4, anh Khanh học giỏi và sau này là giáo sư dạy Toán nổi tiếng ở Saigon, khi đi lính chúng tôi lại phục vụ cùng chung một đơn vị là Sư Đoàn 25BB, Ngym là Trung tá, tôi Đại úy, anh Khanh Chuẩn úy. Với kỷ luật quân đội, Chuẩn úy Khanh rất e dè  ké né khi gặp bạn cũ là Trung tá Ngym. Ngày đầu tiên anh Khanh về trình diện Trung Đoàn bị Trung tá Ngym chỉ thị vác ba-lô theo Đại Đội Trinh sát 46 đi giải vây đồn Bò Cạp (Củ Chi) đang bị địch tấn công, đêm đó giáo sư bụng bự Huỳnh Công Khanh suýt anh dũng nền nợ nước và rất oán giận anh Ngym. Khi gặp Ngym tôi nói: “Mầy ác quá! Nó mới ra trường mà”. Ngym nói: Võ bị Đà Lạt là vậy đó! Nhưng sau đó, anh Ngym đã tế nhị và kín đáo giúp đỡ bạn, cho anh Khanh về làm việc ở hậu cứ và thường xuyên cử anh đi liên lạc với các bạn cùng khóa ở Petrus Ký, phối hợp với anh Trần Khánh Vân và các bạn khác để tổ chức Họp mặt Tất Niên mỗi năm tại Đền Đức Thánh Trần trên đường Hiền Vương… Mỗi lần họp mặt rất vui, bạn bè khắp nơi bốn vùng chiến thuật về khá đủ.Một lần họp mặt Tất Niên, Trần Khánh Vân cho tôi biết thầy Nguyễn Văn Gần dạy Sử Địa đã thi đỗ bằng Tiến sĩ Văn chương Pháp, (thi viết tại Saigon, thầy phải mua vé hàng không khứ hồi đi Paris để thi oral và thầy đã đậu).

Một người học Lớp Đệ Tam B4 nữa là anh Nguyễn Tấn Phận (đang ở San Jose), là tùy viên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, sau là tùy viên Đại tướng kiêm Thủ tướng Trần Thiện Khiêm… anh Phận có lúc làm Quận trưởng Gò Dầu, Tây Ninh.
Lên Đệ Nhất, tôi đổi qua Lớp Đệ Nhất A với các bạn:
– Phùng Vĩnh Tước, hiện ở Santa Ana, Tước nổi tiếng khi làm Cảnh sát trưởng Quận Tân Bình đã dám bắt Cậu Mười (anh Bà Khiêm) về tội đánh bài.
– Trần Tự Lập (con thầy Trần Văn Thử dạy toán) Trưởng ty Cảnh sát Trà Vinh, nổi tiếng trong việc bắt giữ Ngô Công Đức, một dân biểu đối lập VNCH. Trần Tự Lập sau về làm Trưởng ty Cảnh sát Quận 10 và làm CHT Cảnh sát Đô thành vài ngày trong Chính phủ sau cùng của VNCH.
– Nguyễn Thế Phúc, Nha sĩ Quân y, hiện ông bà nha sĩ Phúc còn làm việc, văn phòng trên đường El Cajon, San Diego……
Trong thời gian 7 năm theo học Petrus Ký tôi nhớ có 4 vị hiệu trưởng:

1- Thầy Phạm Văn Còn: hiệu trưởng (1951-1955)
Hồi đó gọi là Proviseur Phạm Văn Còn. Thầy Còn không thuộc ngành sư phạm, nhưng là một công chức cao cấp của Xã Tây (Tòa Đô Chính) thời Thủ tướng Trần Văn Hữu có bằng cấp cao nên được bổ nhiệm về làm hiệu trưởng lo việc giáo dục, đồng thời thầy cũng theo dõi học sinh và giáo sư đễ không phải xảy một vụ Trần Văn Ơn thứ hai tại Trường Petrus Ký.

2- Thầy Nguyễn Văn Kính: hiệu trưởng (1955-1957):
Thầy Nguyễn Văn Kính hiệu trưởng từ Vĩnh Long được bổ nhiệm về điều hành trường thay thế thầy Phạm Văn Còn. Thầy Kính có vẻ cởi mở hơn thầy Còn, chân thầy Kính đi cà vẹo, có lẻ bị tật hay tai nạn bên chân trái, nhưng thầy lại là trưởng đoàn hướng dẫn đoàn Lực sĩ Việt Nam Cộng Hòa tham dự Thế Vận Hội Mùa Hè Úc Châu năm 1956 tại Melbourne trong lúc đang làm hiệu trưởng. Thầy Kính có hai đứa con trai học cùng lớp với tôi năm Đệ Lục là anh Nguyễn Vĩnh Thuận và Nguyễn Trung Hiếu.

3- Thầy Nguyễn Văn Thơ (1957-1958)
Bắt đầu niên khóa 1957 thầy Nguyễn Văn Thơ, giáo sư Pháp văn của trường thay thế thầy hiệu trưởng Nguyễn Văn Kính. Thầy Thơ làm hiệu trưởng một thời gian ngắn nên tôi không nhớ nhiều về thầy. Tuy nhiên, thầy có giọng nói đặc biệt khàn khàn nên các anh trên các lớp Seconde và Première gọi thầy là monsieur Perroquet (con két).

4- Thầy Nguyễn Văn Trương (1958-1960)
Thầy Nguyễn Văn Trương người Bình Dương, tốt nghiệp Cao đẳng Sư Phạm Hà Nội, thầy làm Tổng Giám Thị nhiều đời hiệu trưởng, năm 1958 thầy được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Petrus Ký thay thế thầy Nguyễn Văn Thơ. Thời gian thầy Trương làm hiệu trưởng, trường có nhiều thay đổi, nhất là trong sinh hoạt hiệu đoàn, thể thao văn nghệ… nhiều học sinh sau này nổi tiếng có danh thủ bóng bàn Pham Gia Inh, cầu thủ bóng tròn Phạm Huỳnh Tam Lang… ; đặc biệt trong các trận tranh tài thể thao giữa học sinh Petrus Ký và Chu Văn An,nếu có học sinh nào đánh lộn với Chu Văn An bị thầy Tổng giám thị Nguyễn Văn Toản phạt consigne (cấm túc) thì thầy hiệu trưởng Nguyễn Văn Trương tha hết…

Về việc huấn luyện thể dục thể thao,trường Petrus Ký có sân vận độnglớn nhất trong các trường ở Đô Thành  Saigon, nằm phía sau giáp với đường Trần Bình Trọng. Niên khóa chúng tôi học, thầy Bích là Trưởng ban Thể dục Thể thao và 2 phụ tá huấn luyện là thầy Quý và thầy Giỏi.
Các năm học đệ nhất cấp chúng tôi học âm nhạc với thầy Marcel (lai Pháp, chân thầy có tật) thầy dạy nhạc rất hay, qua một năm ai cũng biết căn bản nhạc lý, thầy đàn dương cầm, học sinh viết lại note nhạc giống như viết một bài chánh tả. Có hôm thầy tập học sinh hợp ca nhạc phẩm Quanh Lửa Hồng của nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ, hát hai bè lên bổng xuống trầm như một ban hợp ca trong nhà thờ:
    Trong đêm thâu quanh ánh lửa hồng
     Dưới ngàn cây xanh lá …
Học Pháp văn từ cấp nhỏ có các thầy Phạm Văn Ba, thầy Phạm Văn Sửu, thầy Trương Văn Cao. Lên đệ nhị cấp chúng tôi học Pháp Văn với thầy Tuấn (sau thầy về trường Ngô Quyền), thầy Huỳnh Văn Hai (thầy nghỉ hoài vì bận đi họp đại biểu Quốc Hội), cô Hồng từ Gia Long qua, giờ cô dạy cả lớp rất vui vì cô dạy rất hay, cuối giờ cô Hồng thường hát một hay hai bản nhạc Pháp…
Giờ Sử Địa ở đệ nhứt cấp chúng tôi học với thầy Lê Xuân Khoa, tôi còn nhớ thầy dạy về nước Iraq, thầy gọi là Lưỡng Hà Địa vì đất nước này có hai con sông Tigris và Euphrates…

Lên đệ nhị cấp chúng tôi học sử với thầy Trần Văn Quế, người Tây Ninh, thầy tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, có lúc thầy là đại biểu của Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh làm việc ở Miền Bắc và sau thầy về dạy ở Petrus Ký, giờ thầy dạy chúng tôi được biết nhiều chuyện đông tây trên thế giới, thầy dạy như ở đại học, vô lớp để nghe, về nhà lật sách học bài. Một lần thầy cho biết thầy cùng học Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội với nhà cách mạng Nguyễn Thái Học, nhưng ông Nguyễn Thái Học học trên thầy mấy lớp. Thầy Quế thuộc nhóm Caraven 17 người ký tên yêu cầu Chính phủ Ngô Đình Diệm cải tổ nội các và cải cách chính trị. Sau đó cả nhóm Caraven bị bắt đi tù. Thầy Quế được giáo sư Trương Công Cừu bảo lãnh ra và từ đó thầy không còn sinh hoạt chính trị nữa…

Tôi còn nhiều kỷ niệm với các thầy cô khác, nhưng bài viết đã khá dài tôi xin ngừng ở đây, nếu có dịp sẽ trở lại viết về các thầy cô dạy các môn khác…
        *        *
Trên đây là những gì tôi nhớ về ngôi trường thân yêu nơi tôi đã từng theo học 7 năm từ năm 1953 đến 1960, tôi biết mỗi thời kỳ có những thay đổi về nhân sự, chương trình học tập …  nhưng chắc chắn rằng truyền thống Petrus Ký không thay đổi đó là kỷ luật và trật tự. Muốn vào học Trường Petrus Ký học sinh của vùng Saigon và các tỉnh phía Nam phải qua kỳ thi tuyển rất gay go, và chính vì được chọn lọc như vậy cho nên học sinh Petrus Ký đậu rất nhiều và rất cao trong các kỳ thi.

Cho nên chúng tôi lúc nào cũng rất tự hào nhận mình là dân Petrus Ký.-/-

11-20-2014
LPK. NGUYỄN KIM QUANG(1953-1960)

Nguồn: nguyentanphan's blog